|  | 
 Đời Sống Tâm Linh Của Giáo Lý Viên
 Hình ảnh về những người được gọi là thầy, là  sư phụ rất khác biệt giữa đông phương với tây phương. Tại đông phương,  thầy dạy không chỉ là người trao cho học trò mớ kiến thức, nhưng là trao  cả nếp sống đạo đức và nhân bản của mình. Đó cũng là hình ảnh thích hợp  với vai trò của giáo lý viên. Tuy nhiên, giáo lý viên còn phải vươn cao  hơn thế nữa vì lý tưởng của họ là chia sẻ chính đời sống đức tin của  mình cho các học trò lớp giáo lý. Vậy đâu là mức độ vươn cao nếu không  phải là đến với chính Đức Ki-tô, Thầy dạy duy nhất 1 (x. Mt 23:8)?
 
 Dạy giáo lý là giúp cho người  học được luôn luôn trưởng thành hơn trong đức tin vào Chúa Giê-su  Ki-tô, biết và yêu mến Người sâu xa hơn, đồng thời vững lòng dấn thân để  theo Người 2.  Đối tượng của việc dạy giáo lý là sự kết hiệp với Đức Ki-tô. Giáo lý  giúp học sinh đi vào mầu nhiệm Đức Ki-tô, gặp gỡ Người để nhờ đó tìm ra ý  nghĩa cuộc sống của mình 3.  Đối tượng đức tin ấy chỉ có thể được giảng dạy một phần nhỏ nào thôi,  nhưng nó cần được chia sẻ cho học sinh bằng một phương thức khác, đó là  truyền lại (to hand on), tức trao cho các em điều chính giáo lý viên đã  lãnh nhận 4.  Làm sao họ có thể trao ban những gì mình chưa lãnh nhận? Do đó, trước  hết giáo lý viên cần có một đời sống đức tin phong phú để chia sẻ với  các em. Nhận thức tầm quan trọng của đời sống tâm linh, tài liệu Danh bạ  quốc gia về Huấn giáo (National Directory for Catechesis)5  của Hội Đồng Giám mục Công giáo Hoa-kỳ đã không ngần ngại đặt việc đào  tạo đời sống thiêng liêng của giáo lý viên lên hàng đầu, trước cả việc  huấn luyện về kiến thức giáo lý và phương pháp giáo lý.
 
 
 6Đào  tạo đời sống tâm linh không thể đem một khuôn mẫu cứng ngắc và không  thay đổi để áp dụng cho mọi người như nhau, nhưng còn tùy thuộc hoàn  cảnh, mẫu người và khả năng ý chí của họ. Tuy nhiên khi nói về nhu cầu  đào tạo đời sống tâm linh, tài liệu NDC nhìn tiến trình đào tạo dưới hai  giai đoạn: khởi đầu và tiếp tục. Chúng tôi cũng dựa trên tài liệu và  cách nhìn ấy để chia sẻ về sự cần thiết phải đào tạo và bồi dưỡng đời  sống tâm linh của giáo lý viên. Do đó, giới hạn của bài chia sẻ này  không nói về bản chất và nội dung của đời sống tâm linh là gì, nhưng về  sự cần thiết của đời sống đức tin và một số những sinh hoạt đạo đức  chính giúp giáo lý viên phát triển đời sống đức tin của họ.
 
 
 1. Đào tạo đời sống tâm linh là một nhu cầu
 Giáo lý viên thường là những người  tình nguyện dấn thân phục vụ Chúa và anh chị em trong một sứ mệnh đặc  biệt của việc rao giảng Tin Mừng. Khởi đầu của rao giảng Tin Mừng là để  giúp người ta trở về với Đức Ki-tô, giáo dục họ trong đức tin và tháp  nhập họ vào đời sống cộng đồng Ki-tô. Tiếp nối của rao giảng Tin Mừng  nhằm giúp những người đã lãnh nhận bí tích Rửa tội hoặc cả ba bí tích  khai tâm được trưởng thành trong đức tin của mình. Do đó, nếu huấn giáo  (catechesis) là sứ vụ của Giáo Hội giúp người ta khởi sự trở về với Đức  Ki-tô và tiếp tục lớn  lên trong đức tin vào Đức Ki-tô, thì học sinh  giáo lý cũng phải là đối tượng của việc rao giảng Tin Mừng, vì các em  tất cả đều cần được giúp đỡ để lớn lên trong đức tin.
 
 
 
 Tham dự sứ vụ huấn giáo đòi hỏi giáo  lý viên được chuẩn bị sẵn sàng, cũng giống như để được tuyển chọn thi  hành chức vụ linh mục, chủng sinh phải được huấn luyện đầy đủ. So sánh  với việc đào tạo kiến thức và sư phạm giáo lý, đào tạo đời sống tâm linh  rất khác biệt, vì nó không chỉ nằm ở bình diện trí óc hiểu biết, nhưng  đi vào chiều sâu của trái tim và ý chí con người. Giáo lý viên có thể  lấy những tín chỉ hoặc chứng chỉ tu nghiệp sau khi tham dự những khóa  thần học hoặc sư phạm giáo lý. Nhưng chẳng ai có thể cấp chứng chỉ về  đời sống nội tâm cho một giáo lý viên sau khi họ tham dự một khóa tĩnh  tâm cả! Đời sống nội tâm hoặc quan hệ cá nhân giữa giáo lý viên với Đức  Ki-tô không thể đo lường bằng chứng chỉ, thước tấc hoặc nhiệt độ, nhưng  là một quan hệ sống động, có thể thay đổi, lên xuống, xa gần từng giây  từng phút. Chỉ cá nhân người ấy và Chúa mới là những nhân vật chính làm  cho đời sống nội tâm được phát triển. Còn những người khác hoặc sách vở  đóng vai trò phụ thuộc.
 
 
 
 Tuy nhiên cũng có một số dấu hiệu  nền tảng cho chúng ta biết mức độ tối thiểu của đời sống nội tâm. Đối  với tín hữu được gọi là có sống đạo (practicing catholic), đời sống nội  tâm được nhận thấy qua việc họ chu toàn bổn phận người Công giáo khi  tham dự Thánh lễ Chúa Nhật... Nhưng đối với một giáo lý viên, đời sống  nội tâm phải ở mức độ cao hơn thế, vì nguyên việc dấn thân phục vụ trong  sứ mệnh huấn giáo đã là dấu hiệu cho thấy người ấy muốn làm một cái gì  hơn mức độ bình thường. Do đó "cái gì hơn mức độ bình thường" đòi hỏi  giáo lý viên cũng phải đào tạo đời sống nội tâm của họ hơn mức độ đời  sống nội tâm của một người Công giáo bình thường.
 
 
 Sự phân tích này hé mở cho ta nhận  thấy việc đào tạo đời sống tâm linh của giáo lý viên là một tiến trình,  khởi đầu từ một mức độ tối thiểu và tiếp tục phát triển mỗi ngày một hơn  trong khi họ thi hành sứ vụ huấn giáo. Tài liệu NDC cho chúng ta một  hình ảnh rõ ràng về đời sống tâm linh của giáo lý viên:
 
 
 
 "Cũng như mọi tín hữu khác, giáo lý  viên được mời gọi nên thánh. Tuy nhiên, vì tác vụ và sứ mệnh của họ, lời  kêu gọi nên thánh mang tính cách cấp thời đặc biệt. Đời sống thiêng  liêng của một giáo lý viên phải được thể hiện qua những điểm sau đây:
 
 [Xem Congregation for the Evangelization of People, Guide for Catechists (Washington, D.C.: USCCB, 1993), nos. 7-10]." 7Có lòng yêu mến Chúa - Cha, Con và Thánh Thần - và yêu mến Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng và dân thánh ChúaCó đời sống nhất thống và đáng tin cậy được biểu lộ qua việc trung thành sống tinh thần đức tin, cậy, mến, can đảm và vui mừng Cầu nguyện và dấn thân cho sứ mệnh rao giảng Tin Mừng của Giáo HộiLòng nhiệt thành truyền giáo giúp họ hoàn toàn xác tín chân lý của đức tin Công giáo và hăng say rao giảng chân lý ấy Tích cực tham gia cộng đoàn giáo xứ địa phương, nhất là tham dự Thánh lễ Chúa NhậtCó lòng sùng kính Mẹ Ma-ri-a, vị  môn đệ tiên khởi và mẫu gương của giáo lý viên, và lòng tôn thờ Thánh  Thể là nguồn lương thực của giáo lý viên. 
 Khi mô tả đời sống thiêng liêng của  giáo lý viên như trên, các Giám mục Hoa-kỳ muốn nói lên mối tương quan  giữa đời sống nội tâm và việc thi hành sứ vụ huấn giáo. Đời sống thiêng  liêng là cần thiết vì nó cung cấp cho giáo lý viên sức sống, lòng nhiệt  thành và sự tích cực, tức là cái tâm, cái hồn của người tông đồ. Đời  sống thiêng liêng đem lại cho giáo lý viên những điểm tựa chắc chắn để  họ chu toàn sứ mệnh: lòng yêu mến, cầu nguyện, sống các nhân đức, tinh  thần truyền giáo, theo gương Mẹ Ma-ri-a và sống nhờ lương thực Thánh  Thể.
 Cái nhìn về đời sống thiêng liêng ấy  cũng khiến cho giáo lý viên phải băn khoăn tự hỏi: Vậy thì tôi có được  đời sống thiêng liêng như thế không? Nó có đủ ít ra ở mức độ tối thiểu  để tôi bắt đầu thi hành sứ vụ huấn giáo không? Tôi phải làm gì để tiếp  tục đào tạo đời sống thiêng liêng của tôi hầu giúp cho sứ vụ huấn giáo  mang lại kết quả tốt đẹp hơn, tức là giúp tôi chia sẻ dồi dào hơn với  học sinh những gì tôi đã lãnh nhận được từ nơi Chúa?
 
 
 
 2. Đào tạo khởi đầu (Initial formation) cho đời sống tâm linh của giáo lý viên
 Trước khi dấn thân lãnh nhận sứ vụ  huấn giáo (dạy giáo lý), giáo lý viên cần được chuẩn bị về ba phương  diện cần thiết: đời sống tâm linh, kiến thức giáo lý và khả năng trình  bày giáo lý hoặc phương pháp giáo lý. Về đào tạo kiến thức và phương  pháp giáo lý, những vị hữu trách như cha quản nhiệm, giám đốc chương  trình giáo lý, có thể giúp giáo lý viên tham dự những khóa huấn luyện do  giáo phận hoặc giáo xứ tổ chức. Còn đào tạo đời sống tâm linh là cả một  vấn đề. Làm thế nào lựa chọn một chương trình huấn luyện thích hợp cho  mọi người? Hầu như khó có thể làm được điều này. Tuy nhiên, những vị hữu  trách, nhất là cha quản nhiệm, là những người mời giáo lý viên tham gia  sứ vụ huấn giáo hẳn sẽ nhận định được một phần nào mức độ cần thiết  phải đào tạo đời sống tâm linh cho họ, bởi vì "trong bất cứ hoàn cảnh  nào, việc đào tạo khởi đầu cho những giáo lý viên mới 'không được lơ là  hoặc để mặc cho những ứng viên dạy giáo lý phải làm lấy một mình' (Guide  for Catechists, no. 28)"
 
 
 8. Vì thế, tài liệu NDC đã đề ra những tiêu chuẩn chính cho việc đào tạo khởi đầu như sau.
 "Việc đào tạo khởi đầu dành cho những giáo lý viên mới cần phải:
 
 Đó là tổng quát việc đào tạo  khởi đầu cho giáo lý viên mới, được tài liệu NDC trình bày. Nhìn qua,  chúng ta nhận thấy một số điểm đề cập đến việc đào tạo kiến thức, tinh  thần, tâm lý và xã hội, còn tất cả những điểm khác đều liên hệ tới việc  đào tạo đời sống tâm linh. Tuy nhiên trong số những điểm sau này lại có  một số điểm đặc biệt nói lên đời sống tâm linh của giáo lý viên, đó là:Giúp họ mở mang tầm hiểu biết về bản chất và những mục đích của việc huấn giáoGiúp họ làm quen với những nguồn liệu họ sẽ sử dụngMinh định cho giáo lý viên biết  họ phải là người Công giáo sống gương mẫu đạo đức Ki-tô và làm một chứng  nhân can đảm cho đức tin Công giáoGiúp giáo lý viên có được sự đào  tạo kỹ lưỡng để hiểu biết và sống đức tin Công giáo, giúp họ ý thức  những hoàn cảnh xã hội, văn hóa, chủng tộc, thống kê dân số và tôn giáo  của những người họ sẽ phục vụ, để giáo lý viên có thể đem sứ điệp Tin  Mừng đến cho những người ấyKhuyến khích và nâng đỡ những  giáo lý viên mới để họ nhận ra tầm quan trọng của việc tiếp tục học hỏi,  nhất là trong lãnh vực Kinh Thánh và dạy giáo lýHướng dẫn giáo lý viên mới biết tập cầu nguyện hằng ngày sâu xa hơnTôn trọng thời giờ giới hạn của giáo lý viên mới không thể phù hợp với việc đào tạo đầy đủPhát triển những đức tính nhân bản, thiêng liêng và tông đồ của giáo lý viên mớiCổ võ một cuộc đối thoại liên  tục trong cầu nguyện giữa giáo lý viên mới và Chúa, đồng thời cũng cổ võ  một cảm thông cởi mở giữa giáo lý viên, những người huấn luyện và giáo  hội địa phươngKhích lệ những giáo lý viên mới để ý tìm kiếm một vị linh hướng là điều lý tưởng giúp họ thăng tiến trong sứ vụLuôn trung thành ở trong những giới hạn của cộng đồng đức tin là nơi diễn ra tất cả nền giáo dục đích thực của các tông đồ."9
 
 Vậy đây chính là những phạm vi  đào tạo để giáo lý viên phát triển đời sống tâm linh như đã được mô tả  là nguồn suối sức mạnh nâng đỡ họ trong sứ vụ. Trong lãnh vực cầu  nguyện, giáo lý viên sẽ tự học hoặc với sự giúp đỡ của người khác để học  cầu nguyện, sao cho việc cầu nguyện đạt tới mức độ "hằng ngày" và "sâu  xa hơn." Nghĩa là giáo lý viên phải tập luyện làm sao cho việc cầu  nguyện của họ trở thành một sinh hoạt cốt yếu trong đời sống hằng ngày  tựa như ăn uống mỗi ngày cho đủ, và được trưởng thành sâu sắc tựa như  lương thực dồi dào chất dinh dưỡng.cầu nguyện hằng ngày sâu xa hơn;liên tục đối thoại với Chúa trong cầu nguyện; vàgặp linh hướng.
 
 
 
 Lãnh vực thứ hai là cuộc đối thoại  liên tục với Chúa trong cầu nguyện. Đối thoại liên tục không có nghĩa là  lúc nào cũng phải nói phải nghe, nhưng là sự hiệp nhất và thông đạt  giữa hai người. Cầu nguyện đưa chúng ta đến sống cuộc đối thoại liên tục  với Chúa, tức là sống mối quan hệ mật thiết với Chúa. Khi sống mối quan  hệ này,  giáo lý viên có môi trường để luôn tìm thấy ý Chúa, nói với  Chúa những ưu tư cũng như vui mừng khi họ thi hành sứ vụ, làm gạch nối  giữa các học sinh với Chúa...
 
 
 Lãnh vực thứ ba, gặp gỡ vị linh  hướng, có thể là một điều mới lạ đối với giáo lý viên mới. Điều mới lạ,  nhưng cũng rất cần thiết, vì linh hướng sẽ là người bạn đồng hành sát  cánh nhất của giáo lý viên trên bước đường trau dồi và phát triển đời  sống thiêng liêng. Vị linh hướng không cần thiết phải là một giáo sư tu  đức, nhưng đúng hơn là một người bạn biết cảm thông, nâng đỡ, lắng nghe,  nhất là đối với một giáo lý viên mới có lẽ chưa bao giờ nghiêm túc tập  tành trong đời sống thiêng liêng và cần rất nhiều chia sẻ của một người  dày kinh nghiệm.
 
 
 3. Đào tạo tiếp tục (Ongoing formation) cho đời sống tâm linh của giáo lý viên
 Trong phần trình bày về đào tạo tiếp  tục cho giáo lý viên, tài liệu NDC đi vào từng lãnh vực riêng biệt, như  nhân bản, tâm linh, trí tuệ, làm nhân chứng và thống nhất cuộc sống. Lý  do tại sao chia ra những lãnh vực riêng biệt có lẽ nhằm giúp cho giáo  lý viên, sau một thời gian dấn thân thi hành sứ vụ huấn giáo và với ít  kinh nghiệm, có thể nhìn vào từng lãnh vực để dễ nhận ra mình cần phải  trau dồi và phát triển thêm những gì. Ở đây, chúng ta chỉ dừng lại ở  lãnh vực thiêng liêng, tức là tiếp tục đào tạo đời sống tâm linh. Tài  liệu Danh bạ quốc gia về Huấn giáo viết:"Trên bình diện thiêng liêng,  việc đào tạo tiếp tục dành cho giáo lý viên cần phải:
 
 Nền tảng đời sống tâm linh của  giáo lý viên là lòng yêu mến, cầu nguyện, sống các nhân đức, tinh thần  truyền giáo, noi gương Mẹ Ma-ri-a và sống nhờ lương thực Thánh Thể. Tuy  nhiên để đời sống đó được triển nở, chúng ta cần phải đi theo một đường  hướng thích hợp. Đường hướng đó lấy Đức Ki-tô làm tâm điểm. Tài liệu NDC  đã mạnh dạn coi việc thăng tiến đời sống tâm linh như là việc kết hiệp  với Đức Giê-su Ki-tô trong đức tin và đức mến. Nói khác đi, càng kết  hiệp với Đức Ki-tô bao nhiêu thì đời sống tâm linh của giáo lý viên càng  thăng tiến bấy nhiêu. Chính Chúa Giê-su cũng đã khẳng định:Giúp họ thăng tiến đời sống  thiêng liêng - tức là kết hiệp trong đức tin và mến với con người Đức  Giêsu Ki-tô - bằng cách hết sức cổ võ họ hãy sống bí tích và cầu nguyện,  nhất là qua việc thường xuyên lãnh nhận bí tích Thánh Thể và Hòa giải,  đọc các Giờ kinh Phụng vụ Sáng và Chiều để kết hiệp với toàn thể Giáo  Hội, suy niệm hằng ngày, làm việc tôn sùng Đức Mẹ, tham gia những nhóm  cầu nguyện, những ngày canh tân và những buổi tĩnh tâm Khích lệ họ gặp linh hướngGiúp họ nhận ra việc phát triển đời sống thiêng liêng của mình cần phải chủ yếu gắn bó với đời sống của Giáo Hội."10
 "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào."11   Như vậy, nếu giáo lý viên càng mở lòng cho Chúa Giê-su đến với mình,  tức là họ càng kết hiệp với Người bao nhiêu, thì đời sống tâm linh của  họ càng được phong phú bấy nhiêu.
 
 Kết hiệp bằng cách nào? Có thật  nhiều con đường đưa chúng ta đến gặp gỡ Chúa Giê-su. Tài liệu NDC kể ra  những phương tiện chính như lãnh nhận bí tích, đọc Giờ kinh Phụng vụ,  suy gẫm hằng ngày, làm việc kính Đức Mẹ... Chúng ta không dừng lại ở  phương tiện, nhưng nhờ phương tiện để đi đến mục đích là Đức Ki-tô, mục  đích đã được thánh Phao-lô Tông đồ định nghĩa: "Tôi sống, nhưng không  còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi"12, hoặc cách mạnh mẽ hơn: "Với tôi, sống là Đức Ki-tô"13.
 
 
 Vấn đề gặp linh hướng được nhắc lại ở  đây hẳn phải có lý do. Nhiệm vụ của linh hướng là đồng hành, chứ không  phải là người quyết định thay cho giáo lý viên phải làm điều này điều  nọ. Công việc tông đồ là dạy giáo lý thì rõ ràng rồi, nhưng con đường  làm việc tông đồ phục vụ thì còn dài và luôn có những khó khăn phải đối  phó. Vì thế trên con đường ấy giáo lý viên cần có người đồng hành nâng  đỡ. Các giáo lý viên khác có thể chỉ là những người bạn, nhưng nhiều khi  không thể làm vị linh hướng cho mình. Do đó cần người có khả năng  chuyên môn để chia sẻ với những vui buồn của giáo lý viên.
 
 
 
 Điểm thứ ba được nêu lên soi sáng  một khía cạnh rất đặc biệt của việc phát triển đời sống tâm linh, đó là  giáo lý viên phải nhận ra "việc phát triển đời sống thiêng liêng của  mình cần phải chủ yếu gắn bó với đời sống của Giáo Hội". Tại sao đời  sống thiêng liêng của họ lại phải gắn bó với đời sống của Giáo Hội? Bởi  vì họ là một chi thể trong Nhiệm thể Chúa Ki-tô. Thánh Phao-lô đã nhắc  đến những người có trách nhiệm huấn giáo trong Giáo Hội: "Vậy anh em,  anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội  Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai  là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm  phép lạ, được những đặc sủng..."14  Các thầy dạy được hiểu là những người có trách nhiệm dạy dỗ, không hẳn  chỉ là giám mục hay các linh mục, nhưng là các giáo lý viên nữa. Sự sống  thiêng liêng từ Đức Ki-tô là Đầu Nhiệm thể được chu lưu trong thân thể,  đến với từng chi thể, tựa như nhựa sống chuyển từ cây nho sang các cành  nho 15.  Cành nho chỉ có thể lớn lên và sinh hoa trái nếu kết hiệp với cây nho.  Cũng thế, đời sống tâm linh của giáo lý viên chỉ phát triển được khi nó  gắn bó với đời sống của Giáo Hội mà thôi. Việc gắn bó này còn nói lên  một hình ảnh đẹp và sống động là khi dạy giáo lý cho học sinh, giáo lý  viên đã  làm công việc thông truyền sự sống của Chúa Ki-tô cho các em.
 
 
 4. Đời sống tâm linh của giáo lý  viên phải là chứng từ (witness) cho các em Giáo lý viên là người xả thân  cho công việc của Chúa và Giáo Hội. Cuộc sống của họ phản ảnh chính  cuộc sống của Đức Ki-tô, Giáo lý viên tiên khởi và gương mẫu 16.  Chúa Giê-su không chỉ là Thầy, nhưng còn là Bạn của các môn đệ Người.  Cung cách dạy dỗ của Đức Ki-tô nói lên đặc tính chia sẻ. Những gì Người  lãnh nhận từ Chúa Cha, Người đã chuyển lại cho các môn đệ 17.  Không phải là chia sẻ một mớ lý thuyết, nhưng là chia sẻ cả một cuộc  sống, cả một con người vì lòng yêu thương. Người không chỉ là Lời của  Thiên Chúa mà thôi, nhưng còn là Lời hóa nên người phàm. Người dạy những  gì Người đã thực sự sống. Đời sống tâm linh của Đức Ki-tô đã thể hiện  qua những lời giảng dạy, nhưng nhất là qua lối sống của Người. Đi bên  cạnh Chúa, các môn đệ không hiểu ý nghĩa những điều Người giảng dạy cho  bằng thấy ý nghĩa những việc Người làm. Trước khi Người dạy họ cầu  nguyện, Đức Ki-tô đã sống đời cầu nguyện. Trước khi dạy họ lòng thương  xót, Đức Ki-tô đã biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa qua những gì  Người làm cho dân chúng "đang lầm than vất vưởng như đàn chiên không  người chăn dắt." Qua Giáo lý viên tiên khởi là Đức Ki-tô, các môn đệ và  dân chúng nhận ra được mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người, nhất là  mối quan tâm của Thiên Chúa đối với tương lai vĩnh cửu của con người.
 
 
 
 Động lực nào đã thúc đẩy Đức Ki-tô  chia sẻ chính cuộc sống mình khi Người thi hành sứ vụ rao giảng Tin  Mừng? Đó là vì Người muốn thực thi thánh ý Chúa Cha và đặt mình trong sự  hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Thánh ý Chúa Cha là lương thực của  Người. Thần Khí Thiên Chúa đầy tràn con người Đức Ki-tô và được biểu lộ  qua tất cả lời giảng, việc làm. Sống và giảng dạy như thế, Đức Ki-tô đã  nói lên đường lối dạy dỗ của Thiên Chúa. "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy"18.  Đức Ki-tô đã để lại một đường lối giảng dạy tuyệt vời là tình yêu, động  lực khiến Người giảng dạy bằng cách chia sẻ chính cuộc sống mình và  cuối cùng bằng cái chết trên thập giá làm chứng cho đức tin vào Thiên  Chúa Cha và niềm tin vào nhân loại.
 
 
 Nói với giáo lý viên, các giám mục Hoa-kỳ nhắn nhủ:
 
 
 "Ngoài gia đình ra, chúng từ ủua  giáo lý viên có thể là quan trọng bậc nhất trong từng giai đoạn của tiến  trình dạy giáo lý. Dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, giáo lý viên gây  ảnh hưởng mạnh mẽ trên những người học giáo lý qua việc họ trung thành  loan báo Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô và gương mẫu đời sống Ki-tô sáng ngời  của họ. Để việc huấn giáo có hiệu quả, giáo lý viên phải hoàn toàn dấn  thân cho Đức Giê-su Ki-tô. Họ phải vững tin vào Tin Mừng của Người và  vào sức mạnh của Tin Mừng có thể biến đổi cuộc sống. Giáo lý viên phải  trao ban những giáo huấn của Đức Ki-tô cho những người học giáo lý; giáo  lý viên phải chuẩn bị cho họ lãnh nhận những bí tích do Đức Ki-tô thiết  lập; giáo lý viên phải hướng dẫn họ biết sống theo giáo lý luân lý của  Đức Ki-tô; và giáo lý viên phải dẫn dắt cho họ biết cầu nguyện với Đức  Ki-tô. Giáo lý viên phải lấy những lời của Đức Ki-tô làm những lời của  mình: "Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai  tôi" (Ga 7:16) và họ cùng với thánh Phao-lô tuyên xưng rằng: "Tôi đã  truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận" (1Cr 15:3)."
 
 
 19  Đức Ki-tô đã lãnh nhận mọi điều từ Thiên Chúa để truyền lại cho các môn  đệ. Những lãnh nhận và đáp trả của Người là tất cả nội dung đời sống  tâm linh của Người, hay nói khác đi, quan hệ sống động giữa Đức Ki-tô  với Chúa Cha, với Chúa Thánh Thần và với nhân loại đã cho chúng ta biết  đời sống tâm linh của Người như thế nào.  Như Đức Ki-tô đã kết hiệp mật  thiết với Chúa Cha để có sự sống phong phú mà chia sẻ cho nhân loại,  giáo lý viên cũng phải kết hiệp với Đức Ki-tô mật thiết để được sống dồi  dào và chia sẻ sự sống ấy với học sinh giáo lý của họ. "Như Cha đã sai  Thầy, Thầy cũng sai anh em." Giáo lý viên được sai đi, nhưng phải là  những giáo lý viên có một đời sống tâm linh thật sống động và sẵn sàng  đem chia sẻ cho người khác.
 
 
 Chúng ta sẽ tự hỏi: Tôi phải bắt đầu  việc đào tạo đời sống tâm linh thế nào và tiếp tục đào tạo làm sao? Trở  về với Đức Ki-tô là khởi đầu và kết hiệp với Đức Ki-tô sẽ là tiếp nối  mãi mãi.
 
 
 Lm. Trần Đình Nhi
 
 
 Phụ lục:
 
 1 Mt 23:8
 2 x. National Directory for Catechesis, tr. 54
 3 x. National Directory for Catechesis, tr. 55
 4 1 Cr 15:3
 5 United States Conference of Catholic Bishops, National Directory for Catechesis, Washington, D.C.: USCCB, 2005.
 6 x. National Directory for Catechesis, tr. 236-237
 7 National Directory for Catechesis, tr. 229
 8 National Directory for Catechesis, tr. 237
 9 National Directory for Catechesis, tr. 237-238
 10 National Directory for Catechesis, tr. 239
 11 Ga 10:10
 12 Gl 2:20
 13 Pl 1:21
 14 1Cr 12:28-29
 15 Ga 15:1-6
 16 x. The General Directory for Catechesis, nos. 137-138
 17 Ga 15:14-15
 18 Ga 14:23
 19 National Directory for Catechesis, tr. 110
 __________________
 	
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất: |  |