|  | 
 Với một vẻ quan tâm ra mặt và sự lo âu rung động lộ ra trong giọng  nói, Frank nhìn vào người bạn 42 tuổi ngồi đối diện. Anh chưa gặp lại  Tom trong bảy năm qua. Sau hai giờ đồng hồ nói chuyện anh cố tìm đúng từ  ngữ để nói: “Tom, tôi không biết phải nói thế nào, và cũng không muốn  làm bạn đau lòng … nhưng bạn đã thay đổi! bạn không còn là cùng một  người mà tôi biết trước đây. Có vẻ bạn không còn tin những điều ngày xưa  bạn đã tin!”. Tom bình tĩnh trả lời: “Phải, cám ơn bạn. Tôi cho đó là  một lời khen. Và tôi hy vọng là tôi tiếp tục thay đổi cùng lớn lên trong  điều tôi tin suốt đời.”
  Frank  và Tom tiêu biểu cho hai quan niệm rất khác nhau về tuổi trưởng thành  và ĐứcTin. Theo quan điểm của Frank, niềm tin tôn giáo phải bất di dịch  và không xáo trộn. Theo Tom thì niềm tin cũng giống như tất cả mọi bình  diện của đời sống người trưởng thành là luôn tiến hóa. Đức Tin của chúng ta có được thay đổi trong đời sống trưởng thành của  mình không? Hầu hết người trưởng thành thời nay trả lời là “Có”. Theo  thăm dò của cơ quan Gallup năm 1985 thì 65% người trưởng thành tin rằng  niềm tin của một người phải thay đổi trong cuộc đời như thân xác và trí  khôn người ta thay đổi. Đây chắc chắn là quan niệm của đa số các vị linh  hướng và cố vấn ngày nay. Nhưng còn có một vài vấn đề chưa được giải  quyết. Niềm tin thay đổi thế nào? Làm sao chúng ta biết rằng mình mất  Đức Tin hay thực sự đang lớn lên trong Đức Tin? Niềm tin mà chúng ta học  và thực hành khi còn trẻ có đủ để giúp chúng ta đương đầu với những  thách đố mà chúng ta gặp sau này trong cuộc đời không? Những giai đoạn  thông thường nhất mà hầu hết chúng ta có thể phải trải qua là gì? Những  dấu chỉ của Đức Tin trưởng thành là những gì?
 Nguồn Gốc của Đức Tin
 Chúng ta có thể bắt đầu tìm kiếm vài câu trả lời cho những vấn nạn  này bằng cách nhìn nhận rằng, trước hết, Đức Tin theo nghĩa rộng nhất là  cách chúng ta hiểu Thiên Chúa và các hoạt động của Thiên Chúa trong đời  sống con người. Cũng như sự hiểu biết của chúng ta về chính mình, xã  hội và thế giới của chúng ta không tránh được những thay đổi khi chúng  ta tiếp tục sống trên đời, thì sự hiểu biết của chúng ta về sự hiện diện  và hoạt động của Thiên Chúa trong cuộc đời con người cũng có thể thay  đổi. Đức Tin không lớn lên trong chân không nhưng lớn lên từ vườn ương  cây của kinh nghiệm cuộc đời chúng ta.
 Nó có thể được hình thành bởi đủ loại kinh nghiệm cá nhân: bởi tình  yêu và sự sửa dạy của cha mẹ, của giáo huấn mà chúng ta nhận được từ nhà  trường hay nhà thờ, từ những lời cầu nguyện được Thiên Chúa nhận lời  hay không nhận lời, từ những niềm vui bất ngờ hay những thất bại quặn  lòng, từ những cuộc thảo luận và những bất đồng ý kiến với bạn bè hay  đồng nghiệp.
 Và kinh nghiệm, hơn hết những điều khác, thường báo hiệu một sự chuyển hướng hay thay đổi về Đức Tin là kinh nghiệm về xung khắc (va chạm) hay bối rối.  Xung khắc có thể xảy ra vì một lời cầu nguyện không được trả lời rõ  ràng, hay vì vỡ mộng đối với một khuôn mặt quyền thế được kính trọng,  hoặc bởi một cuộc hôn nhân hay tình bạn chí thân bị đổ vỡ, hoặc bởi gặp  một người mà niềm tin và giá trị của họ xem ra quá khác biệt với chúng  ta. Trong mỗi trường hợp, giây phút xung khắc và bối rối thách đố chúng  ta để xét lại một quan điểm trước kia về Thiên Chúa.
 Chúng ta không nhạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu có lần bảo những người  theo Người: “Các con tưởng Thầy đến để thiết lập hòa bình trên thế gian?  Trái lại: Thầy đến để tạo xung đột và chia rẽ” (Lc 12:51). Xung đột và  bối rối thường là con đường dẫn đến một Đức Tin đầy đủ hơn. Những kinh  nghiệm như thế có thể cho chúng ta biết rằng Đức Tin trước kia của chúng  ta chưa đủ để đương đầu với những bình diện mới của cuộc đời. Rằng Đức  Tin trước đây phải được điều chỉnh lại, như Đức Tin quá dựa vào Lề Luật  của Thánh Phaolô trước khi trở lại từ đạo Do Thái bị xung khắc với và  được điều chỉnh bởi cuộc gặp gỡ các Kitô đầu tiên.
 Cũng thế, sự thiếu khả năng của niềm tin trước đây của chúng ta giúp  chúng ta đối phó hay hiểu ý nghĩa của một vài kinh nghiệm trong đời có  thể báo hiệu cho chúng ta rằng cần phải thay đổi niềm tin. Tôi nhớ lại  chuyện một người cha trong một gia đình mà đức tin của ông thay đổi hầu  như hoàn toàn sau khi đứa con trai của ông bị tai nạn xe hơi. Ông đã hỏi  đi hỏi lại: “Làm sao mà Thiên Chúa lại để điều này xảy ra?” Việc không  nhận được câu trả lời ngay làm cho ông nhận ra Thiên Chúa hiện diện trên  thế gian như thế nào. Hoặc, có một học sinh Công Giáo ở trung học đệ  nhị cấp đã theo học một trường đại học Tin Lành nhỏ và bỗng nhiên thấy  rằng mình không có câu trả lời cho các câu hỏi mà các bạn cùng ở nội trú  đưa ra. Các câu trả lời cũ xem ra không thuyết phục được ai – ngay cả  chính em! Nhờ tìm kiếm sâu xa hơn và thắc mắc đưa em đến một trình độ  Đức Tin mới hơn.
 Các nhà nghiên cứu được hướng dẫn bởi công trình quan trọng của Giáo  Sư James Fowler của Đại Học Emory đã bỏ ra gần 20 năm để phỏng vấn về  đời sống Đức Tin của nhiều người cả nam lẫn nữ. Gần đây họ đã xác định  được ít ra là sáu giai đoạn khác nhau về Đức Tin mà người ta dường như  tỏ ra. Trong mỗi trường hợp, việc tiến đến giai đoạn sau xảy ra khi một  kinh nghiệm nào đó trong cuộc đời mời gọi một người đi đến một sự hiểu  biết mới về Thiên Chúa. Giai đoạn mới của Đức Tin này truyền vào đời  sống một sự hiểu biết đầy đủ hơn và giúp người ấy có những quyết định có  trách nhiệm hơn và thật sự bác ái hơn.
 Giờ đây chúng ta sẵn sàng xem xét kỹ hơn về những giai đoạn của Đức  Tin này. Chúng ta sẽ chú tâm đến những điểm đáng lưu ý nhất của mỗi giai  đoạn cũng như những loại kinh nghiệm thường báo hiệu việc di chuyển  sang một giai đoạn mới của Đức Tin. Xin nhớ rằng chúng ta thực sự không  nhìn vào một “bản đồ” cung cấp cho chúng ta những chi tiết về con đường  thẳng nhất và chắc chắn nhất để kết hợp với Thiên Chúa. Đây thực ra chỉ  là sự diễn tả những “dấu chỉ đường” mà nhiều người đã gặp trên cuộc hành  trình Đức Tin của họ. Biết tìm dấu chỉ đường nào có thể giúp bạn chuẩn  bị cho những đoạn đường khó khăn hơn của cuộc hành trình và có thể hướng  dẫn bạn đi qua một vài khúc quănh bất ngờ của cuộc đời.  Nhận ra một  vài mốc hay bảng chỉ cây số  trên đường có thể đảm bảo rằng bạn đang  tiến bước trên hướng đi mà bạn muốn đi. Và việc nhận ra có những giai  đoạn khác nhau của cuộc hành trình có thể giúp bạn hiểu, tôn trọng và  giúp đỡ những người đồng hành với bạn.
 1. Đức Tin Tưởng Tượng
 Đức Tin của một em bè thường thì rất giàu tưởng tượng cho đến khi em  lên bảy tuổi. Trí óc các em đầy những hình ảnh về Thiên Chúa, về thế  giới và những gì sau đó, nhưng những hình ảnh này đôi khi trái ngược  nhau. Thiên Chúa có thể là hình ảnh một ông (nội hay ông ngoại) luôn yêu  thương, luôn hiện diện ở đâu đó trên trời, hay có thể là một người cha  hay người mẹ quá đòi hỏi dường như không thể làm hài lòng được. Ở giai  đoạn này, Đức Tin của một em bé thường thì “lành mạnh” nếu đầu óc các em  chứa đầy những hình ảnh tích cực, là những hình ảnh của một thế giới  như một nơi thân mật và đón chào các em, và Thiên Chúa như một phụ huynh  yêu thương và đáng tin cậy. Điều này đúng cho khi nói về một em bé năm  tuổi cho rằng “Thiên Chúa có thể đi vòng quanh thế giới trong một ngày.  Và Ngài cũng có thể làm điều xấu cho em!” Nhưng không hiển nhiên lắm khi  một em khác nói: “Quỷ đi lên từ lỗ nẻ và bắt em khi em làm điều xấu!”
 Những hình ảnh về Thiên Chúa có thể làm cho một em bé sợ hãi, cảm  thấy tội lỗi và lo lắng là những điều thật sự nguy hiểm cho Đức Tin ở  giai đoạn này. Có một số hình ảnh tàn hại về Thiên Chúa và thế giới có  thể tiếp tục ám ảnh các em khi trưởng thành và tạo cho các em một Đức  Tin có một khuôn quá tỉ mỉ, lo lắng và bi quan. Nhưng, khi đứa trẻ đạt  đến “tuổi biết lý luận” khoảng bảy tuổi, ước ao muốn biết các sự việc  thật sự ra sao làm giảm việc các em chỉ lệ thuộc vào trí tưởng tượng.  Bây giờ một em bé muốn biết nhiều hơn về thế giới thật sự ra sao và sự  vật được sắp đặt thích hợp với nhau thế nào. Đứa trẻ sẵn sàng cho thế  giới của những câu truyện và một giai đoạn mới của Đức Tin.
 2. Đức Tin Từ Chương
 Các trẻ em trong những năm đầu đi học thường rất thích nghe truyện.  Cho nên không mấy ngạc nhiên việc học những câu truyện về tôn giáo trong  một gia đình hay một nhóm ở nhà thờ cung cấp cho các trẻ em ở tuổi này  một hinh ảnh về Thiên Chúa rõ ràng và kiên định hơn. Đặc biệt là các câu  truyện về Thánh Kinh vẫn là phương pháp thích hợp cho việc giáo dục về  tôn giáo. Tuy nhiên, đối với trẻ em ở tuổi này tất cả mọi câu truyện  trong Thánh Kinh đều được hiểu cách từ chương. Thí dụ, câu truyện ông  Ađam và bà Evà, ông Noe và trận Đại Hồng Thủy, ông Môsê và Mười Điều  Răn, Chúa Giêsu chịu đóng đanh và Thánh Phaolô trở lại tất cả đều được  đọc như nhau – như là có thật về cả văn chương lẫn lịch sử. Trong khi  Đức Tin từ chương thích hợp với trẻ em ở giai đoạn này, những người lớn  mà Đức Tin vẫn còn từ chương trong cuộc đời sau đó đôi khi có thể tỏ ra  chống trí thức hoặc không đồng ý với những ý nghĩa sâu xa hơn của Thánh  Kinh và của chính đời sống.
 Điểm chính yếu về đức tin từ chương là một quan điểm về Thiên Chúa  như Đấng thưởng những điều lành và phạt những điều dữ. Người ta cho rằng  Thiên Chúa hành động như một phụ huynh yêu và khen chúng ta khi chúng  ta ngoan, nhưng cũng sửa trị chúng ta khi chúng ta sai lỗi. Như thế Đức  Tin đưa đến việc thương lượng với Thiên Chúa: “Nếu tôi làm điều Thiên  Chúa mong muốn tôi làm, tôi có thể trông cậy rằng Ngài sẽ giúp tôi để  trả lại”. Tôi nhớ khi còn học tiểu học tôi thường hứa đọc thêm mười kinh  Lạy Cha và Kính Mừng nếu Thiên Chúa giúp tôi làm được bài thi hay thắng  một trận baseball. Và thường thì được! Thiên Chúa giữ lời! Nhưng dần  dần tôi nhận ra tôi không thể luôn luôn đoán được việc của Thiên Chúa và  Ngài không đáng tin cậy như tôi nghĩ. Sự đổ vỡ của quan niệm quá từ  chương coi Thiên Chúa là vị trọng tài tối cao của hạnh phúc và khốn khổ  đưa chúng ta đến một sự hiểu biết mới về Thiên Chúa và một giai đoạn mới  của Đức Tin.
 Nhưng vẫn có những người lớn sống hầu hết cuộc đời họ bằng một Đức  Tin từ chương. Cách đây mấy năm, có một khoa học gia thông thái đã về  hưu làm cho tôi ngạc nhiên với ý kiến: “Về phần Đức Tin, tôi thà giữ  những gì tôi học được ở lớp ba”. Thật vậy, ông vẫn tiếp tục coi Thiên  Chúa như một quan tòa ban phát sự may mắn hay sự rủi ro tùy theo cách cư  xử của mỗi người. Nhưng Đức Tin này tỏ ra quá chênh lệch với đời sống  của một khoa học gia. Ông ta tiếp tục trách mình vì việc không may xảy  ra cho một đứa con trai nghiện rượu và một đứa con gái bị trục trặc về  tình cảm. Chắc ông phải làm điều gì sai! Nếu không thì tại sao Thiên  Chúa lại để việc ấy xảy ra? Một Đức Tin mọc rễ quá sâu trong việc thương  lượng với Thiên Chúa thường hiếm khi tỏ ra đủ để giải quyết những phức  tạp của đời sống người lớn.
 3. Đức Tin theo Nhóm
 Bởi vì theo tự nhiên hầu hết người trẻ thường đánh giá cao tầm quan  trọng của tình bạn, nên các em thường coi Thiên Chúa như một Đấng đối xử  với các em như một đồng bạn đáng tin cậy. Đồng thời các người trẻ  thường có khuynh hướng bắt chước những vị anh hùng mà các em kính phục  hoặc những khuôn mặt quyền thế đáng kính. Tầm quan trọng mỗi ngày một  gia tăng của các đồng bạn và những vị anh hùng cùng những khuôn mặt có  quyền thế đáng quý làm cho Đức Tin trong những năm niên thiếu hay những  năm đầu tiên của tuổi trưởng thành rất bị nhóm ảnh hưởng.
 Kết quả là một đặc điểm chính của Đức Tin ở giai đoạn này, là nó được  hình thành phần lớn bởi những mong muốn, giá trị và những sự hiểu biết  của những nhóm quan trọng mà chúng ta thuộc về. Nhóm quan trọng có thể  là gia đình, cộng đồng giáo xứ, nhóm bạn bè hay đồng nghiệp. Việc đồng  hóa nhiều với một nhóm thường làm cho chúng ta ý thức hơn về những trách  nhiệm của cộng đồng. Một người trẻ đã diễn tả khá hay về Đức Tin ở giai  đoạn này như sau: “Đức Tin của tôi đã luôn luôn giúp tôi đi đúng đường  trong cuộc đời và nhắc nhở cho tôi điều Thiên Chúa mong mỏi nơi tôi”.
 Một đặc điểm nữa của Đức Tin ở giai đoạn này là nó vẫn chưa bị các em  thắc mắc. Tin tưởng vào quyền bính và sự đáng tin cậy của nhóm làm cho  các em không thắc mắc gì cả. Điển hình là lời phát biểu dưới đây trong  một cuộc phỏng vấn về Đức Tin: “Cha tôi là một người Công Giáo tốt, đi  Lễ hằng ngày, giữ Mười Điều Răn và nói tôi cùng anh tôi cũng làm như  thế…. Ông nói rằng mỗi khi chúng tôi thắc mắc phải hành động ra sao,  chúng tôi cứ theo đúng giáo huấn của Hội Thánh. Thắc mắc chỉ làm cho  chúng tôi gặp khó khăn”.  Trong khi Đức Tin theo nhóm cho chúng ta một  sự rõ ràng và kiên định, nó cũng có nguy cơ làm cho người ta không muốn  gánh lấy trách nhiệm cá nhân. Đến cực đoan, nó đưa đến một niềm tin mù  quáng trong việc bảo vệ nhóm của mình. “Đúng hay sai cũng là quê hương  tôi!” “Hội Thánh của tôi là Hội Thánh chân chính!”  Đồng thời cách hành  đạo bởi vì “mọi người khác đều làm như thế” cuối cùng trở thành máy móc  và không hồn.
 Đối với nhiều người trưởng thành, một số kinh nghiệm nào đó sớm hay  muộn cũng buộc người ta phải thắc mắc về niềm tin trước kia. Có thể là  kinh nghiệm nhìn thấy những ý kiến trái ngược hay xung khắc giữa các vị  thầy dạy về tôn giáo, các linh mục hay các giám mục. Hoặc vì không thể  chấp nhận hay hiểu một số giáo huấn của Hội Thánh hoặc một sự thay đổi  trong cách thực hành của Hội Thánh. Công Đồng Vatican II đã gây ra nhiều  thắc mắc cho rất nhiều người Công Giáo. Thắc mắc kiểu này, dù rắc rối  cách mấy đi nữa, thường là dấu chỉ của việc phát sinh ra một giai đoạn  mới và thách đố hơn về Đức Tin.
 4. Đức Tin Cá Nhân
 Theo thăm dò của cơ quan Gallup nhắc đến ở trên, ba phần tư người  trưởng thành ở Hoa Kỳ bây giờ tin rằng niềm tin được thêm mạnh nhờ thắc  mắc về những điều đã tin trước đây. Rõ ràng là nhiều người trưởng thành  đang ý thức rằng việc giữ một số niềm tin nào đó hay làm một số thực  hành tôn giáo chỉ “vì cha mẹ tôi đã làm, hay thầy cô tôi đã dạy, hoặc  các đấng có thẩm quyền trong Hội Thánh bảo tôi phải làm thế, hay những  người khác đều làm như thế” là điều không đủ. Một ước muốn chịu trách  nhiệm về những điều tôi tin và giá trị mà tôi sống là dấu chỉ một Đức  Tin cá nhân (nhưng không riêng tư!) ít lệ thuộc vào những mong ước của  nhóm. Sự hiểu biết của tôi về Thiên Chúa giờ đây được uốn nắn nhiều hơn  bởi kinh nghiệm của đời sống cá nhân của tôi. Những niềm tin trước kia  bây giờ được phân tích và có thể phải thay đổi, canh tân, đào sâu, hoặc  nếu thấy sai lầm, thì phải loại bỏ.
 Việc chuyển sang một Đức Tin cá nhân “của tôi” này thường hiếm khi  xảy ra mà không có một sự căng thẳng hay tranh đấu quan trọng. Thánh  Têrêxa thành Avila đã tìm thấy cuộc hành trình riêng của bà từ một Đức  Tin theo tập quán qua một Đức Tin có tính cách cá nhân hơn là một kinh  nghiệm đau thương. Để diễn tả kinh nghiệm này bà đã viết, “Đôi khi tôi  đã bị sự xáo trộn của ý tưởng này đè nén cách khủng khiếp”. Bà đã ghi  nhận cách khôn ngoan rằng khi ấy sự hiện diện của những nghi ngờ và thắc  mắc có thể đưa người ta đến chỗ cảm thấy rằng mình mất Đức Tin.
 Thường thì điều ngược lại cũng đúng. Thiên Chúa có thể hướng dẫn họ  tìm hiểu ý nghĩa của niềm tin trước kia của họ. Như trường hợp của một  phụ nữ 43 tuổi nói rằng cách đây bốn năm bà thường đi xưng tội ít ra là  hai tuần một lần. Bà biết rằng điều đó trở thành một thông lệ đối với  bà, nhưng bà không dám bỏ xưng tội vì sợ có điều chẳng lành sẽ xảy ra  cho bà. Nhưng nhờ sự lớn mạnh của lòng biết ơn Thiên Chúa vì tình yêu  không ngừng Ngài dành cho bà và sẵn sàng tha thứ cho bà, bà đã có can  đảm thay đổi thói quen này, Kết quả là như bà nói: “Bây giờ tôi ít đi  xưng tội thường xuyên hơn, nhưng dường như việc việc xưng tội có ý nghĩa  nhiều hơn đối với tôi”.
 Đối với một số người sự chuyển đổi sang Đức Tin cá nhân có nghĩa là  họ phải sẵn lòng chịu đựng sự đau khổ phải làm những gì không vừa lòng  bạn bè, các phần tử trong gia đình và những nhà lãnh đạo Hội Thánh. Đối  với một sinh viên đại học nó có nghĩa là phải chịu bạn bè chế nhạo vì  chọn làm theo giá trị Kitô giáo trước những việc thực hành về tính dục  của các bạn cùng nội trú trong đại học. Đối với những phụ nữ Công Giáo  trẻ nó có nghĩa là mở rộng ý thức của cô về các giáo hội Kitô giáo khác  bằng cách tham gia những buổi phụng tự của Tin Lành một thời gian –  trong khi làm cho cha mẹ cô lo âu. Đối với những người khác, nó đưa đến  tiến trình đau thương trong việc thấy mình không thể chấp nhận một giáo  huấn nào đó của Hội Thánh.
 Những quyết định như thế có thể là cần thiết nếu người ta muốn phát  huy một lương tâm trưởng thành và lãnh nhận trách nhiệm đối với những  giá trị mà họ chọn để đi theo. Cách sống đầy Đức Tin giờ đây có nghĩa là  chấp nhận rằng ngay cả những luật lệ, phong tục, và hướng dẫn hữu dụng  nhất đôi khi cũng giới hạn khả năng của họ trong việc chỉ cho người ta  một cách cư xử tốt nhất. Lệ thuộc vào Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương  và chúc phúc cho chúng ta bằng hồng ân lý trí con người giờ đây giúp  người ta có thể hành động càng ngày càng theo những phán đoán và quyết  định ngay thẳng nhất của mình. Tuy nhiên vẫn còn những người tiếp tục đi  tìm những câu trả lời cho những vấn nạn phức tạp hơn của cuộc đời  thường đưa đến việc khám phá ra một nguồn mạch của sự khôn ngoan đôi khi  nằm ngoài cả lý lẽ cá nhân.
 5. Đức Tin Thần Bí
 Đừng để từ “thần bí” làm bạn trì hoãn. Nó chỉ có nghĩa là hiệp thông  với Thiên Chúa. Tiêu chuẩn của giai đoạn đầy đủ này của một Đức Tin  trưởng thành không là gì khác hơn một kinh nghiệm mà các nhà thần bí  Kitô giáo thường diễn tả – là cảm nghiệm rằng Thiên Chúa đang ngự trong  chúng ta. Thánh Phaolô làm chứng cho Đức Tin thần bí này khi ngài nói,  “Đời sống mà giờ đây tôi sống không phài của tôi; mà Đức Kitô sống trong  tôi” (Gal 2:20). Ngài mời người khác đến Đức Tin bằng cách nhắc nhở cho  họ, “Anh em đang sống trong tinh thần vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự  trong anh em” (Rom 8:9). Đối với hầu hết mọi người ý thức về sự hiện  diện của Thiên Chúa trong lòng này được bắt đầu bằng một ao ước hay một  ước muốn mãnh liệt thành một người hoàn hảo hay sống một cuộc đời càng  có ý nghĩa càng tốt.
 Thomas Merton, tác giả dòng Trappist, đã diễn tả ao ước này bằng  những lời sau, “Khi tôi đã tìm thấy con người thật của tôi, tôi đã tìm  thấy Thiên Chúa”. Sự khao khát trong lòng để là tất cả những gì mà Thiên  Chúa mời gọi người ta thành, dẫn con người ở giai đoạn này đến việc  lắng nghe một cách chăm chú hơn những tư tưởng, những cảm giác và những  ước muốn sâu xa nhất của mình. Họ bắt đầu nghe theo lời nhắc nhở của  Thánh Phaolô rằng Thiên Chúa thường nói với chúng ta qua “những tiếng  rên siết trong lòng mà không thể diễn tả bằng lời” (Rom 8:26). Một nữ tu  ở tuổi ngũ tuần nhận thức được cái nhìn này của Đức Tin khi chị nói,  “Tôi tin rằng bằng cách lắng nghe phần sâu thẳm nhất của tôi thì hoàn  toàn giống như nghe Thiên Chúa. Ở điểm đó, chúng tôi là một”.
 Ở giai đoạn này ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa ở nội tâm đưa  người ta đến việc trở nên ý thức hơn rằng Thiên Chúa cũng ngự trong tha  nhân. Kết quả là người ta bắt đầu xem những người với những niềm tin,  màu da và chủng tộc khác nhau như anh chị em với nhau. Điển hình là một  vị thất tuần đã nói, “Tôi đã học kính trọng bất cứ ai. Tôi có thể ngồi  xuống nói chuyện với một người Hồi Giáo hay Do Thái hoặc Ả rập hay bất  cứ ai, và nếu họ bắt đầu nói về tôn giáo theo cách của họ, tôi có thể  thực sự hoàn toàn thích hợp trí khôn của tôi với của họ, xem trí khôn họ  đi về đâu, và hiểu những tư tưởng của họ”. Đối thoại liên tôn giờ đây  không còn là một đe dọa mà là một dịp cho những hiểu biết mới. Việc nhận  ra tình huynh đệ hay tình tỉ muội của mỗi người cũng làm cho người ta  thêm dấn thân trong việc xây dựng hạnh phúc cho tất cả nhân loại.
 Chẳng mấy ngạc nhiên khi Đức Tin thần bí có ảnh hưởng mạnh đối với  liên hệ của một người với những cơ sở tôn giáo. Ý thức cao về quyền  tuyệt đối của Chúa Thánh Thần làm cho người ta ít lệ thuộc hơn vào quyền  bính có giới hạn của những nhóm ngưới. Nhửng người trưởng thanh sống  một Đức Tin thần bí chân chính khám phá ra một trác1h nhiệm mới để thách  đố và cố gắng làm cho chính các cơ chế (giáo hội, chính quyền, các nhóm  dân sự) mà họ là phần tử được nên tốt hơn. Tuy nhiên, đôi khi họ cũng  khám phá ra rằng họ có thể cần ngay cả một mức độ Đức Tin cao hơn để  sống theo những lý tưởng của họ.
 6. Đức Tin Hy Sinh
 Thỉnh thoảng lịch sử cung cấp cho chúng ta những gương sáng củă những  người đẵ đồng cảm quá sức với hạnh phúc của tha nhân và đã dân thân cho  những giá trị của chân lý và công lý đến nỗi có khả năng yêu thương vô  vị lợi vượt xa hầu hết chúng ta. Chúa Giêsu, ông Ganđi, bà Dorothy Day,  TGM Oscar Romero là những gương Đức Tin hy sinh này. Những người như thế  biểu lộ một quyết tâm tận gốc và không thay đổi để thực thi Thánh Ý  Thiên Chúa mà không nhượng bộ vì quan tâm đến địa vị hay an toàn cá  nhân. Trong vài trường hợp lòng sẵn sàng hy sinh mạng sống cho tha nhân  đã đưa đến tử vì đạo. Đối với những người ít nổi danh hơn, nó đưa đến  một sự hiến thân liên tục để giúp tha nhân lớn lên và thăng tiến xã hội  nói chung.
 Vở kịch được nhiều người ưa thích của Robert Bolt, Một Người của Mọi  Mùa (A Man of All Seasons) trình bày cuộc đời chính trị và cái chết của  Thánh Thomas More và miêu tả rất đúng những đặc điểm của một Đức Tin Hy  Sinh chân chính. Thánh Thomas More chống lại việc Vua henry VIII tự nhận  là thủ lãnh cũa Giáo Hội ở nước Anh và bày tỏ Đức Tin đã làm ngài hứng  khởi bằng những lời cuối cùng thời danh, “Tôi chết như một tôi tớ tốt  của nhà Vua, nhưng trước hết như một tôi tớ của Thiên Chúa”. Đối với một  người có Đức Tin như thế, nhờ làm theo Thánh Ý Thiên Chúa, được phân  biệt cách cẩn thận, thì không còn gì để nhượng bộ. Quyết tâm theo những  giá trị của chân lý, công lý và đức ái của một người trở nên hoàn toàn  hy sinh.
 Đức Tin nào đúng cho bạn?
 Vậy bạn hay tôi phải có giai đoạn hay mức độ Đức Tin nào? Chúng ta có  nên tìm cách đạt được mức độ “cao nhất không”? Tất cả chúng ta có nên  hy vọng đạt đến Đức Tin hoàn toàn hy sinh không?  Chắc chắn rằng tất cả  chúng ta đều có khuynh hướng coi đó là một lý tưởng. Nhưng có ai dám cả  gan bảo bạn rằng bạn phải ở gai đoạn nào của cuộc hành trình của bạn?  Nhất địng rằng bạn phải đạt được mức độ hoàn toàn trưởng thành ngay bây  giờ chẳng khác gì cố gắng nắm một nụ hoa mà kéo lên để nó nở hoa hoàn  toàn. Một cố gắng như thế phải là tàn bạo và thiếu xây dựng. Và nó coi  thường chân lý là mọi sự đều có mùa của nó.
 Đức Tin vẫn luôn luôn là quà tặng của Thiên Chúa. Cái mức chính xác  mà chúng ta được Thiên Chúa mời gọi đi đến phần lớn tùy thuộc vào những  kinh nghiệm của cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta ở mỗi  bước phát triển của chúng ta, phê chuẩn chúng ta ở mức độ mà chúng ta  đang đứng và khi đúng thời sẽ mời chúng ta đến đời sống đầy đủ hơn. Lời  mời gọi này có thể đến dưới hình thức không bằng lòng cách dai dẳng với  cách stống của chúng ta hoặc qua những sự đè nén không ngừng của những  hồ nghi và thắc mắc. Nó có thể được nói lên trong khi chúng ta tìm kiếm  những giải pháp tồt đẹp hơn cho những khó khăn trong cuộc đời.
 Khi mà chúng ta ý thức hơn rằng Đức Tin phát triển từng bước, chúng  ta cũng đi đến những kết luận cụ thể. Thí dụ chúng ta có thể cần phải  học kiên nhẫn và nhìn nhận rằng có những điều ngoài tầm kiểm soát của  chúng ta: nó có thể chỉ cần thời gian, hay thử đi thử lại, để đi tử giai  đoạn này đến giai đoạn khác. Chúng ta cần phải tin tưởng rằng Thiên  Chúa ở trong tiến trình lớn lên trong Đức Tin của chúng ta, là một tiến  trình thường thì kh mấy bằng phẳng. Cho nên việc chúng ta có thể cảm  thấy xung đột, sợ hãi và nghi ngờ hay đương đầu với những câu hỏi hóc  búa là điều bình thường. Điều này còn có thể là dấu hiệu báo cho chúng  ta phải tìm đến người khác để được giúp đỡ hay hướng dẫn, và đó đã là  dấu chỉ của sự tăng trưởng.
 Sau cùng, tiến trình từng giai đoạn của Đức Tin dạy chúng ta rằng  thay đổi không phải là điều xấu. Đó là chất liệu của đời sống con người,  là ý nghĩa của hoán cải, là con đường của Nước Chúa đang đến – giống  như hạt cải bé nhỏ, theo mức độ dần dần trở thành một cây lớn. Việc sẵn  sàng đón nhận sự thay đổi, đón nhận lời mời gọi liên tục của Chúa Thánh  Thần, có thể là hồng ân của Thiên Chúa mà chúng ta cần nhất.
 
 
 Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
 	
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất: |  |