| 
 |  
 
 Bàn về sự lên hệ của thuyết tiến hoá và đức tin là một chuyện hết sức  phức tạp, liên quan đến thần học, triết học, khoa học, v.v… Những học  giả lỗi lạc nhất cũng không đồng ý với nhau, nên không phải chỉ thông  minh và học nhiều là hiểu được vấn đề. Tác giả bài này vừa kém thông  minh vừa ít hiểu biết trong các vấn đề có liên quan, nên chắc chắn không  khỏi sai lầm. Nếu vậy thì viết làm gì? Tôi chỉ xin chia sẻ cái hiểu  biết giới hạn của mình, một phần vì nhiều người hỏi, nhất là các em  trong lứa tuổi trung và đại học, và nhiều thầy cô cũng hỏi, nên tôi cố  gắng học hỏi và trả lời theo sức của mình. Hy vọng các học giả chân  chính sẽ viết các bài khác hay hơn, rõ hơn, đầy đủ hơn sau khi họ đọc  bài kém cỏi này. Phần lớn tư tưởng được trình bày ở đây là từ Giáo sư  John Haught thuộc đại học Georgetown, qua hai cuốn sách God After Darwin  (xuất bản năm 2000) và Deeper Than Darwin (2003) mà tôi chỉ hiểu một  phần nhỏ. Một văn kiện quan trọng hơn, mà chính GS Haught cũng thường  nhắc tới, là bài huấn từ của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho ủy  ban Khoa Học Tòa Thánh vào ngày 22/10 năm 1996, mà tôi xin trích dẫn  dưới đây (độc giả có thể xem toàn bộ bản văn tiếng Anh tại http://www.ewtn.com/library/PAPALDOC/JP961022.HTM) .   
 
Vấn Đề Đức Tin  
 
Loài người từ khỉ mà ra? Chứ không phải do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng  nên và ban cho một linh hồn giống hình ảnh Ngài sao? Nhiều người Công  Giáo đã quá quen với câu hỏi đó. Thuyết tiến hoá còn đưa ra nhiều vấn đề  khác, ít quen thuộc hơn nhưng còn nan giải hơn. Tôi chỉ xin đưa ra một  vài thí dụ về các vấn đề này. 
 
Vũ trụ dưới con mắt của thuyết tiến hóa rất tàn khốc. Ông Trời như bất  cần, để cho các loài thụ tạo dành sống, tiêu diệt nhau, theo nguyên tắc  chọn lựa tự nhiên (natural selection) vô tư. Như vậy đâu phải là một  Thiên Chúa tình thương đã tạo dựng như Giáo Hội Công Giáo dạy? 
 
Vũ trụ biến chuyển bất ngờ, không thể tiên đoán bước kế tiếp được, theo  thuyết tiến hóa. Như vậy có một Thiên Chúa toàn năng và biết hết mọi sự  không? Nếu có Thiên Chúa đó, thì thuyết tiến hóa không thể đúng được, mà  chỉ nói lên sự dốt nát của con người thôi? 
 
Cái vũ trụ quan mà đa số mọi người hiện đang chấp nhận là một vũ trụ  quan rõ ràng, có trật tự, và có ý nghĩa: từ vật vô tri, đi lên tới các  thảo mộc, rồi tới động vật, rồi tới con người, và trên hết là Thiên  Chúa. Mỗi bậc cách biệt hẳn nhau, thí dụ như con người khác hẳn con thú.  Chúng ta có lẽ đã xây dựng sự hiểu biết về đức tin Công Giáo trên cái  vũ trụ quan này. Khi thuyết tiến hóa cho thấy cái vũ trụ quan đó có lẽ  là quá đơn sơ đến độ sai lầm, chúng ta đâm lo lắng là không biết đức tin  của chúng ta có bị thuyết tiến hóa gạt bỏ cùng với cái vũ trụ quan đơn  sơ kia không.   
 
Vũ trụ quan của thuyết tiến hóa ra sao? Vũ trụ đã có từ 13.7 tỉ năm  trước—có lẽ ông Darwin cũng không ngờ điều này. Sự sống, kể cả cây cỏ,  mới có gần đây, và lịch sử con người lại càng mới hơn, như trang cuối  của một bộ bách khoa tự điển gồm cả vài chục cuốn và mỗi cuốn cả ngàn  trang. Nếu mục đích của Tạo Hóa là tạo dựng con người, sao phải vất vả  nhiều tỉ năm, với bao nhiêu tai ương và thay đổi, mới tới được giai đoạn  này? Và với bối cảnh lịch sử hàng tỉ năm như vậy, mặc dù con người có  cao trọng hơn các phần khác trong vũ trụ thật, nhưng đồng thời không  tách biệt khỏi các loài khác như trong vũ trụ quan cũ, và chỉ là một  phần tí hon trong cái lịch sử dài này. 
 
Đây là vấn đề cho người Công Giáo: nếu thuyết tiến hóa đúng, có còn chỗ  đứng cho đức tin Công Giáo nữa không? Để bảo vệ đức tin người Công Giáo  có cần tấn công thuyết tiến hóa không? Thuyết tiến hóa là một phần của  khoa học, mà khoa học của con người bất toàn, nên thuyết tiến hóa cũng  bất toàn, vậy ta có nên dẹp khoa học bất toàn này ra khỏi lãnh vực đức  tin và khỏi lo tới nó nữa hay không? Thuyết tiến hóa có thể song hành  với đức tin không? Thuyết tiến hóa có thể giúp đức tin phát triển bằng  cách giúp ta hiểu và yêu mến Chúa hơn không? Và đức tin có thể hướng dẫn  thuyết tiến hóa không?  
 
Giáo Huấn của Giáo Hội về Thuyết Tiến Hóa 
 
Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhắc lại thông điệp Humani generis của  ĐGH Piô XII năm 1950, trong đó nói rõ rằng không có gì xung khắc giữa  thuyết tiến hóa và đức tin, với điều kiện là ta để ý tới một số vấn đề. 
 
ĐTC Gioan Phaolô II công nhận giá trị của thuyết tiến hóa, không chỉ coi  nó là một giả thuyết hoang đường, “… những kiến thức [khoa học] mới  nhất cho chúng ta thấy sự tiến hoá [xác thực] hơn là một giả thuyết.   Thật đáng thán phục khi thấy các nhà nghiên cứu đã từng bước một chấp  nhận [tính khả thi] của thuyết này sau khi đã có một chuỗi những khám  phá mới trong các lãnh vực tri thức khác nhau. Không phải vì [mục đích]  tìm tòi hay chế tạo, nhưng là do kết quả của những cuộc nghiên cứu độc  lập mà [người ta] đã thấy được điểm quy chiếu [của các ngành khoa học];  điểm quy chiếu này tự nó đã là một chứng cứ hùng hồn cho thuyết tiến hoá  (fresh knowledge has led to the recognition that evolution is more than  a hypothesis. It is indeed remarkable that this theory has been  progressively accepted by researchers, following a series of discoveries  in various fields of knowledge. The convergence, neither sought nor  fabricated, of the results of work that was conducted independently is  in itself a significant argument in favour of this theory).  
 
Ngài không gạt thuyết tiến hóa ra khỏi lãnh vực đức tin, “Huấn quyền của  Hội Thánh quan tâm trực tiếp đến câu hỏi của sự tiến hoá… (The Church’s  Magisterium is directly concerned with the question of evolution…)”  Ngài nhận xét rất tinh tế và chính xác rằng có nhiều thuyết tiến hóa chứ  không phải một, “We should speak of several theories of evolution.” 
 
Ngài còn kết luận bài huấn từ đó rằng vấn đề vấn đề sự sống liên quan  trực tiếp đến chính Thiên Chúa. Söï soáng thuoäc veà Thieân Chuùa. Ngaøi  laø Thieân Chuùa haèng soáng: “Even more, ‘life’ is one of the most  beautiful titles which the Bible attributes to God. He is the living  God.”  
 
Phản Ứng và Thuyết Minh Định (Intelligent Design)  
 
Một số người Thiên Chúa Giáo (Công Giáo cũng như Tin Lành) không đồng ý  với Đức Thánh Cha. Họ cho rằng thuyết tiến hóa là duy vật và sai lầm.  Chỉ một ít người nhắm mắt đi theo thuyết Tạo Dựng, tức là tin vào nghĩa  đen của Cựu Ước, theo đó vũ trụ chỉ mới có quãng 6000 năm. Chúng ta nên  gạt thuyết này qua một bên. Chính thánh Augustine, từ thế kỷ thứ 5 sau  công nguyên, đã coi những người hiểu lầm Thánh Kinh như vậy là một điều  xấu hổ và nguyên nhân làm người khác coi thường Giáo Hội. Một thuyết mới  hơn, và phần nào có uy tín hơn, tạm gọi là thuyết minh định  (intelligent design, thuyết này dưạ trên quan niệm rằng sự sống quá phức  tạp để có thể cho rằng đó chỉ là sản phẩm của ngẫu nhiên). Người phổ  biến thuyết này là một luật sư, Phillip Johnson. Ông viết cuốn Darwin on  Trial (1991). Đa số những người theo nhóm này là Tin Lành bảo thủ, tuy  nhiên cũng có vài người Công Giáo, như ông Michael Behe. 
 
Vắn tắt thì thuyết này có một cái đúng và nhiều cái sai. Cái đúng là  không chấp nhận một thuyết tiến hóa đặt nền móng trên một triết lý duy  vật. Cái sai chính là thuyết minh định tự coi mình là khoa học, nhưng  bản chất của nó chỉ là một triết lý chống lại duy vật.  Thuyết này cho  rằng sự chọn lọc tự nhiên, căn bản của thuyết tiến hoá, là duy vật. Tuy  nhiên, thuyết tiến hóa đâu nhaát thieát phải là duy vật. Như ĐTC Gioan  Phaolô II nói, có nhiều thuyết tiến hóa, chỉ một trong những thuyết này  dựa trên duy vật, và Giáo Hội không chấp nhận thuyết đó. 
 
Có một số hệ thống triết học, như thuyết duy vật, là vô thần và không  được Giáo Hội chấp nhận. Ngoài ra, Giáo Hội đã dùng nhiều hệ thống triết  học khác nhau như những ngôn ngữ bất toàn để diễn tả một đức tin sâu  thẳm trong một thời gian nào đó, thí dụ như thánh Augustine dùng triết  học của Platô, hay thánh Tôma dùng triết học Aristotle. Những triết học  đó chỉ là những ngôn ngữ của thời đại, có phần nào chính xác, nhưng  không toàn hảo. Ngôn ngữ triết học thích hợp trong khung cảnh thuyết  tiến hóa có lẽ là triết lý về quy trình (process philosophy) của toán  học gia Alfred North Whitehead (1861-1947). Những hệ thống triết học này  vượt qua tầm mức của bài này (và của tác giả nữa). Điểm chính ở đây là  đức tin dùng ngôn ngữ của triết học, nhưng không lệ thuộc vào một hệ  thống mà thôi. Như vậy có nghĩa là có những lúc con người phải suy nghĩ  và diễn tả lại những điểm không thay đổi cũng như những hiểu biết mới  của đức tin trong một ngôn ngữ mới. 
 
Thuyết minh định chưa có thể so sánh với thuyết tiến hóa trong lãnh vực  khoa học: cả khoa sinh vật học (biology), ngày nay dựa hoàn toàn trên  thuyết tiến hóa, trong khi chưa có một bài khảo cứu nào của nhóm theo  thuyết minh định được xuất bản trên bất cứ tập san khoa học nào (peer  review journals). Chúng ta cũng tạm gác thuyết này qua một bên và trở về  với thuyết tiến hóa. 
 
Đặc Tính Của Thuyết Tiến Hóa 
 
Về mặt căn bản, thuyết tiến hoá chủ trương mọi sinh vật đều bị biến đổi  theo dòng thời gian. Từ đơn giản đến phức tạp, nêu hội đủ thời gian và  điều kiện thay đổi của môi trường. Có nghiã rằng sự bất biến, thường  hằng không thuộc về sự sống. Vì có sống là có thay đổi. Nhưng những thay  đổi này không xảy ra nếu không có sự chọn lọc tự nhiên và thời gian  tiệm tiến. Đó là ba đặc tính chính của thuyết tiến hoá: thay đổi, chọn  lọc, và tiệm tiến.  
 
Đặc tính đầu tiên là có những đột biến hoặc thay đổi mới lạ (accidents,  mutations). Những đột biến này gây khó khăn đủ các nơi. Chính trong khoa  học cổ điển, một nguyên tắc căn bản và thiết yếu là sự kiện có thể lập  lại được (replicable) trước đến giờ, và mãi về sau sẽ luôn luôn như thế,  thì mới có thể tiên đoán được. Hệ thống kinh tế tư bản, dù nổi tiếng về  vấn đề phát triển những đường hướng mới, vẫn sợ thay đổi và coi sự ổn  định (stability) như một giá trị cao, thí dụ như thị trường có ổn định,  luật pháp có vững vàng (predictable) thì mới khuyến khích việc đầu tư.  Những nền chính trị độc tài cũng sợ những ảnh hưởng mới. Ngay thuyết  minh định kể trên cũng muốn loại bỏ cái thực sự là mới, bằng cách cho  cái mới này vào sự tiền định của Thiên Chúa: con người ngu si cứ tưởng  là mới, chứ Thiên Chúa đã tính như vậy từ lâu rồi, không có gì phải ngạc  nhiên hay lo lắng. Ngay trong dân gian, chúng ta cũng hay nghe bà con  an ủi nhau, “thôi thế là ý Chúa,” cho dù đó là điều hãi hùng! 
 
Chúng ta thấy đặc tính đầu tiên này của thuyết tiến hóa gây trở ngại đủ  mọi nơi, chứ không riêng gì cho nền thần học cổ truyền. Mặt khác, chính  cái mới lạ này rất đẹp. Hơn nữa, những điều mới lạ không xa lạ gì trong  kinh nghiệm của con người. Không những các họa sĩ, văn sĩ sáng tạo những  cái mới, mà những kinh nghiệm của mỗi người chúng ta luôn mới lạ, như  khi mới lập gia đình, mới có con, mới mất việc, v.v… Gần hơn nữa, mỗi  người luôn luôn có cảm nhận mới: tôi chưa bao giờ có cảm nhận như tôi  đang cảm nhận ở giây phút này, trong hoàn cảnh này, ở tuổi này. Trước  đây cũng như sau này chính tôi cũng như mọi người không ai còn có cảm  nhận y như vậy nữa. Kinh nghiệm chủ quan (subjective) này khoa học tân  tiến nhất cũng chưa biết cách dùng. 
 
Chúng ta thường nói Thiên Chúa là đấng chân thiện mỹ. Cái đẹp (mỹ) cần  cả hai phần: cái mới lạ cũng như cái trật tự. Chỉ có trật tự thì mất đi  một phần thiết yếu của cái đẹp, và nhất là mất đi sự sống, mà chỉ còn  lại cái máy. Khoa vi tính ngày ngay đang cố dùng máy móc tối tân nhất để  bắt chước phần nào cái mới lạ của sự sống này qua khoa tri thức nhân  tạo (artificial intelligence). Vũ trụ, với sự sống, vượt qua những cỗ  máy này xa, vì luôn có sự mới lạ bất ngờ. Vì sự mới lạ này đẹp, ta càng  thán phục Thiên Chúa đã dựng nên một vũ trụ đẹp như vậy. Có khi nào  chúng ta quá sợ hãi, không dám nhìn ra cái đẹp này, nên tìm mọi cách từ  chối đặc tính này của vũ trụ? Có phải vì vậy mà một số người phải chống  thuyết tiến hóa tới cùng, vì thuyết tiến hóa nhận ra cái đẹp khó chấp  nhận này trong vũ trụ? 
 
Chúng ta chỉ nói qua hai đặc tính nữa của thuyết tiến hóa: sự chọn lọc  tự nhiên (natural selection) và lịch sử lâu dài hoặc tiệm tiến (deep  time). Sự chọn lọc tự nhiên cho chúng ta cái trật tự, là một trong hai  đặc tính của cái đẹp đã bàn ở trên. Lịch sử lâu dài có thể diễn tả sự  kiên nhẫn của Thượng Đế.   
 
Đức Tin và Khoa Học  
 
Tôi xin trình bày sơ qua một vài cách nhìn khác nhau về sự liên hệ giữa  đức tin và khoa học. Một cách là xung đột: chấp nhận một trong hai. Ai  theo đức tin thì đừng để khoa học hạn hẹp của con người hạn hẹp làm chia  trí; quên khoa học đi, chỉ nhìn đức tin mà thôi. Ai theo khoa học thì  bỏ đức tin, vì đức tin chỉ là cái nạng của người dốt, cho những người mê  tín, ở vào thời đại khoa học chưa phát triển. Khá nhiều thày cô trong  các đại học có quan niệm này. 
 
Một cách khác nữa là lẫn lộn (confabulation). Thuyết sáng tạo  (Creationism, cho rằng vụ trụ này được dựng nên theo tiến trình y hệt  sách Sáng thế trình bày) là một thí dụ của cách này, coi thánh kinh như  sách khoa học. 
 
Một cách nữa là tách rời (separation): khoa học bàn về thế giới này, còn  đức tin bàn về giá trị của con người cũng như đời sau. Hai cái không  liên quan tới nhau. Có lẽ khá nhiều người đi theo cách này, một phần vì  không biết cách nối giữa hai phần nên giữ chúng tách biệt. 
 
Có lẽ cách hấp dẫn nhất và được bàn thêm dưới đây là củng cố cho nhau  (confirmation). Sự thật nào mà khoa học có thể làm sáng tỏ được thì trở  thành một phần của cuốn thánh kinh sống trong thiên nhiên, giúp con  người hiểu thêm về Thiên Chúa và về chính mình, dù tự khoa học không thể  đưa tới cái hiểu biết này được, mà chỉ là một phần chất liệu đưa tới sự  hiểu biết này. Đồng thời, đức tin cũng có thể gợi ý và cảm hứng cho  khoa học, cho dù thần học không thay thế cho khoa học được.  
 
Vài Cách Đức Tin Chấp Nhận Thuyết Tiến Hóa 
 
Ngay cả khi tín hữu chấp nhận thuyết tiến hóa, cũng có nhiều cách chấp  nhận. Một cách là chiụ đựng (tepid tolerance). Sự quan phòng của Thiên  Chúa huyền diệu, nên mình đâu biết gì mà bàn tới. Còn cái mà con người  tưởng là mới lạ, chưa chắc đã là mới lạ trong sự quan phòng của Thiên  Chúa. Cách này có cái hay là nhận biết cái hữu hạn của con người, nhưng  thật ra cũng không nói lên được điều gì khác. 
 
Một cách khác là coi thuyết tiến hóa như một phương pháp Thiên Chúa dùng  để dạy con người (divine pedagogy). Những đau khổ trong thiên nhiên  giúp cho con người suy nghĩ về điều Thiên Chúa muốn dạy ta, như trong  thư gửi Do Thái 12:6, “Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy.” Cái hay  của cách này là phần nào giải thích được sự đau khổ, nhưng cũng có vấn  đề: tại sao Thiên Chúa muốn dạy con người mà bắt biết bao nhiêu phần tử  trong tạo vật đau khổ trong thời gian thật dài? Và Thiên Chúa muốn dạy  gì? 
 
Còn nhiều cách khác, nhưng tôi xin chú tâm vào một cách, đó là tìm hiểu  Thiên Chúa qua chính sự tiến hóa của vũ trụ, và còn lạ tai hơn nữa là  dùng những gì chúng ta biết được về Thiên Chúa để hướng dẫn sự nghiên  cứu sự tiến hóa của vũ trụ.   
 
Vũ Trụ Giúp Ta Hiểu Chúa Hơn 
 
Linh mục Pierre Teilhard de Chardin, SJ (1881-1955), người Pháp, bị  chính Giáo Hội đày qua Tầu vì Giáo Hội tại Âu Châu lúc đó chưa chấp nhận  được ý tưởng của ngài. Ngài có những công trình khảo cứu tại Tầu, rồi  chết âm thầm tại Mỹ. Sau khi ngài chết, sách của ngài mới được xuất bản  và có ảnh hưởng sâu rộng ngay cả trong Công Đồng Vatican II. 
 
Qua công trình khảo cổ của ngài, ngài khám phá ra chiều hướng trở nên  càng ngày càng phức tạp hơn (gradual increase in complexity), từ tiền  nguyên tử (pre-atomic matter), tới nguyên tử, tới phân tử (molecules),  tới tế bào, v.v…, lên tới loài khỉ, rồi loài người; từ “geosphere”(ñòa  caàu) tới “biosphere”(sinh caàu) tới “noosphere(trí caàu).” Một nguyên  tắc nữa là đồng quy (centration), từ nhân nguyên tử (nucleus) tới trung  tâm thần kinh (central nervous system), tới tự giác (self-aware), tới  tôn giáo, và cuối cùng là tới Omega hay Thượng Đế. Như vậy Thiên Chúa  mời gọi con người lên tới cùng Ngài, ngược lại với thuyết duy vật là chỉ  có vật chất và đi về vật chất.  
 
Nói một cách khác, tinh thần (spirit) là vật chất được quy nạp và nâng  cao, còn vật chất (matter) là tinh thần bị phân hóa, chia rẽ. Như vậy  tránh được cái nhìn nhị nguyên (dualism) giữa tinh thần và vật chất (như  của Descartes). Điều đó cũng giải thích được là người có linh hồn vẫn  có thể đi xuống, phân hóa, như chiến tranh hiện nay. Thiên Chúa mời gọi  vũ trụ và con người đi lên, nhưng con người có tự do, có thể chọn đi  xuống. 
 
  
 
Từ Thần Học Tới Vũ Trụ Học 
 
Chúng ta biết về Thiên Chúa qua Đức Kitô. Chúng ta hãy để ý tới vài đặc  tính sau của Ngài: khiêm nhường, mầu nhiệm thập giá, ban trao chính thân  mình (self-giving), và hứa hẹn (promising, opening up the future), mà  sự tự hiến (self-emptying) của Đức Kitô là một đặc điểm thiết yếu, như  trong bài kinh của Giáo Hội sơ khai được ghi lại trong thư gửi Philiphê  2:6-8, 
 
2:6 Đức Giê-su Ki-tô 
vốn dĩ là Thiên Chúa 
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì 
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, 
 
2:7 nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang 
mặc lấy thân nô lệ, 
trở nên giống phàm nhân 
sống như người trần thế. 
 
2:8 Người lại còn hạ mình, 
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, 
chết trên cây thập tự. 
 
Một Tạo Hóa khiêm nhường như thế thì muốn töï nhường chỗ cho vũ trụ có  tự do để tự phát triển, chứ không hành động như một kẻ độc tài.  
 
Mầu nhiệm thập giá là Thiên Chúa tham dự vào cái đau khổ của vũ trụ. Mà  vì sao vũ trụ lại đau khổ? Thần học gia Karl Rahner giải thích đơn giản  như sau: Thiên Chúa vô biên, ban tặng chính mình cho vũ trụ hữu hạn, nên  vũ trụ phải vất vả chuyển mình để thăng hóa (transcend) lên với Thiên  Chúa. Đau khổ là đặc tính của vật bất toàn, trên đường tiến về cùng  Thiên Chúa.  
 
Tại sao Thiên Chúa lại tạo nên vũ trụ bất toàn? Vì nếu vũ trụ toàn hảo  thì lại là một phần của Thiên Chúa rồi, trong khi tình thương của Thiên  Chúa muốn ban tặng cho vũ trụ một thực thể riêng (the other), với một  tương lai riêng, với tự do, và với sự sống đẹp (vừa có điều mới lạ lại  vừa có trật tự, như đã bàn ở trên. Trong cái tương lai riêng này, Thượng  Đế không bỏ mặc vũ trụ, mà hứa hẹn cứu chuộc. (Tại sao lại có sự dữ  [theodicy] là một vấn đề gai góc cho mọi nền thần học, vượt quá tầm của  bài này.)  
 
Trong khung cảnh lịch sử của cả nhiều tỉ năm này, phép Thánh Thể còn có ý  nghĩa phong phú hơn nữa: tấm bánh miến không phải chỉ tượng trưng cho  miếng bánh, mà tượng trưng cho cả một lịch sử phát triển, từ vật chất  không sự sống, tới cây có sự sống mang hạt giống, tới việc Thiên Chúa  nâng bánh này, là một phần kết tinh của vũ trụ cũng như lao công con  người, lên thành chính mình máu Chúa. Đây là chiều hướng Thiên Chúa đưa  vũ trụ lên tới chính Ngài, như cha Chardin đã diễn tả.   
 
Dĩ nhiên còn nhiều vấn nạn mà tất cả nhân loại, kể cả các thần học gia,  cần phải nghiền ngẫm hơn. Thánh Kinh dạy là Thiên Chúa trực tiếp ban  linh hồn cho mỗi người. Điều này có ý nghĩa gì, và có thể đi chung với  thuyết tiến hóa không? Có lẽ ta có thể hiểu là Thánh Kinh muốn diễn tả 2  điều: giá trị đặc biệt của loài người, và tính chất cá biệt của mỗi  người; mỗi người có giá trị riêng và rất cao trước mặt Chúa. Hai điều  này thuyết tiến hóa hoàn toàn đồng ý. Nhân loại có một giá trị đặc biệt  vì chỉ con người mới có ý thức, mà chỉ ý thức mới đưa vũ trụ lên đến tôn  giáo và tới Thiên Chúa. Và trong di truyền học (genetics, infomatics,  mỗi cá nhân khác biệt, không ai giống ai; đó là căn bản cho giá trị  riêng của mỗi người. 
 
Sau khi nghiền ngẫm về những ý nghĩa trên của thuyết tiến hóa, có thể  chúng ta hiểu Chúa một cách sâu đậm hơn, tâm tình hơn, ý nghĩa hơn, mà  không trật khỏi Thánh Kinh, tông truyền, hay các giáo huấn khác của Giáo  Hội, cho dù ta dùng những tư tưởng và ngôn từ lạ tai. Thiên Chúa cũng  ban cho Giáo Hội những chủ chăn sáng suốt như ĐTC Gioan Phaolô II, người  can đảm tuyên bố chấp nhận thuyết tiến hóa có điều kiện. Giáo Hội cũng  cẩn trọng, đi chầm chậm, và những người con xuất sắc như cha Chardin  cũng đã khiêm nhường đi với Giáo Hội. Chúng ta cũng có thể theo gương  các vị đó, tin tưởng vào Thượng Đế để không phải lo sợ lý thuyết nào  hết, và tận dụng mọi cái hay của các lý thuyết để đến gần Chúa hơn,  trong khi sáng suốt gạt bỏ những điều trái sự thật, chăm chỉ học hỏi,  can đảm phát triển, và khiêm nhường vâng phục. Đó có lẽ là đường tiến  tới Thiên Chúa vậy, và bài này là một cố gắng đi trên bước đường đó. 
 
 
 
Tác giả: Gs. Lê An Hòa 
	
	
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
 
	
    | 
 |