|
ĐGH Leo XIV với hiện tình Giáo-hội.
Mở đầu:
Những nét đậm trong việc bầu chọn ĐGH Lêo:
Một thời gian trước khi Ngài được bầu chọn, thì mọi lời bàn tán trong cũng như ngoài giáo hội, đều không một ai nhắc đến tên ngài trong bất cứ danh sách ngắn hoặc dài nào.
Vì thế khi Ngài được bầu thì tất cả mọi phía đều nhìn nhận đây là phép lạ và đối với người tin Chúa thì ta tin rằng Chúa Thánh-Thần đã can thiệp rõ ràng.
Gần như mọi bình luận đều đồng ý rằng đức Leo có đủ các đặc điểm thích hợp cho thời thế về tình trạng nội bộ giáo hội cũng như tình trạng xã hội ngày nay.
- Về tình trạng nội bộ giáo hội, thì vì Ngài cũng vẫn sẽ đi theo con đường của Đức Francisco nhưng có thể sẽ có vài thay đổi mềm dẻo hơn, nên sẽ dễ dàng cho nhóm bảo thủ chấp nhận hơn (tuy vẫn có vài vị HY vẫn bất bình) nhưng vì họ đã cao tuổi rồi nên thấy không còn thời cơ để chống phá nữa chăng!
- Về tình trạng xã hội và thế giới thì nhìn gần gũi và trực tiếp vào nước Mỹ: Vì là giáo hoàng người Mỹ, nên Đức Leo có thể trực diện với TT Mỹ với tư thế mạnh mẽ hơn. Ta đã thấy rằng chính phủ của TT Mỹ đã đi quá đà, ngược với đường lối của giáo hội và nhiều vị GM Mỹ đã đối diện với tổng thống và phó tổng thống trong nhiều vấn đề rồi.
- Còn về thế giới thì Đức Leo cũng sẽ rất thích hợp với nhiều vị lãnh đạo trên thế giới vì tiểu sử ôn hòa, khiêm nhường và chiều dài trải nghiệm với mọi giới trong xã hội, nhất là giới lao động nghèo khổ.
Trên đây là vẫn tắt những điểm nổi bật về con người của ĐGH Leo XIV.
——————————-
Dưới đây chúng tôi xin Bàn đến vài Tiểu đề:
1. Đối với phe nhóm bảo thủ trong Giao-hội.
2. Những vấn nạn trong Giáo-hội và giáo dân hôm nay.
3. Những hy vọng đầy phấn khởi cho tương lai của Giáo-hội.
——————————————-
1. Phe nhóm bảo thủ trong giáo hội:
Tuy ngày nay, nhóm này đã ít đi nhiều, nhưng sự chống đối giáo hội vẫn còn đó. Vậy thử tìm hiểu xem họ bảo thủ cho những lãnh vực nào và vấn đề gì.
Chúng tôi tin rằng phe bảo thủ có những lý lẽ cao sâu nào đó của họ. Nhưng ở đây chúng tôi chỉ xin bàn đến vài điều hiểu biết của chúng tôi, nhìn từ phương vị của phía giáo dân, là những người được hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi những hành vi bảo thủ mà ra.
Chúng tôi chỉ hiểu rằng: bảo thủ không phải là một chủ thuyết hay chính sách có hệ thống nào cả mà chỉ là những tư tưởng rời rạc, có khi được nối kết để hỗ trợ nhau.
Sự hình thành của tư tưởng bảo thủ trải qua nhiều thời đại và xã hội khác nhau do văn hóa phong tục địa phương. Nếu phong tục có giá trị với thời gian thì còn tồn tại lâu đời. Có phong tục mà ngày nay xét lại, người ta mới thấy là không còn hợp tình hợp lý hoặc hơn nữa là đáng lên án, ví dụ chế độ đa thê hoặc khinh rẻ phụ nữ, nô lệ. Hay trong phạm vi nhỏ hẹp hơn là những phong tục dưới hình thức “gia phong”, mà đôi khi vì “gia phong” mà cha mẹ đã đuổi con cái ra khỏi nhà để giữ tai tiếng cho gia phong, đau đớn thay!
Giáo hội cũng đã trải qua một thời gian dài vì một số HY/GM trong thời kỳ tòa án “Inquisition” mà ĐGH Gioan Phaolo II đã phải xin lỗi thế giới… Trong sinh hoạt của giáo hội, ta đã trải qua bao đời với những luật lệ hình thức khắt khe mà ngày nay, sau công đồng Vatican 2 và khuynh hướng “lòng Chúa thương xót” nên đã bớt dần.
Trên đây là nói về một số các Đấng bảo thủ thuộc nhóm chống đối tích cực, nhưng nhìn rộng hơn, ta thấy số các Đấng có khuynh hướng tiêu cực hơn, không chống đối, nhưng tránh tuân theo các cải cách của giáo hội, kể cả các đường lối từ Công đồng Vatican 2.
Ngày nay người giáo dân vẫn còn cảm nhận được không khí “giáo sĩ trị” mà từ trong công đồng Vatican II, một vài giáo phụ đã nói rằng “chúng ta vẫn coi giáo dân là những công dân hạng 2, chỉ biết cúi đầu vâng phục và đóng tiền”.
Cách đây vài năm, Đức TGM Nguyễn Năng, trong bài giảng tĩnh tâm cho các linh mục cũng đã nhắc các cha phải bỏ cách sống “giáo sĩ trị” và sống giữa giáo dân…
Đến đây tôi sực nhớ đến kỳ đại hội ở TGP Sài Gòn, trong dịp kết thúc năm “hiệp hành”: tất cả các bản báo cáo của 8 giáo điểm thì đều có 1 câu kết luận giống nhau, đó là: xin các cha hãy sống gần với giáo dân chúng con.
Anh em tôi từng chia sẻ với nhau rằng, giáo phận Sài Gòn đã nói thay cho hàng triệu giáo dân khắp nơi… Kể cả vài tờ báo công giáo ở Mỹ cũng thỉnh thoảng có bài nói về việc các Đấng chẳng hiểu gì giáo dân cả…
Chúng tôi sẽ dành một phần dưới đây (2b), để bày tỏ những khát vọng của giáo dân đang cần đến các Đấng lưu tâm đến mọi tầng lớp giáo dân.
-----------------------------------------------------------
2. Những vấn nạn của giáo dân hôm nay:
a. Nhìn từ phía ngoài và tổng quát, người ta thấy nhiều nhà thờ đã trống vắng và có khi đóng cửa vì số người già đã mai một và ra đi; còn lớp trẻ thì phần lớn đã bỏ đạo, xa đạo...
Ta hãy nghe ĐGH Gioan Phaolô II, trong văn thư “Tân phúc âm hóa”: một số giới trẻ bỏ đạo để chuyển sang đạo khác vì họ không tìm thấy trong đạo ta những giáo huấn thích hợp với họ nữa… Ngài còn nói: nhiều người chỉ biết giữ đạo theo cách “vị luật”, theo thói quen, bề ngoài… ĐGH cũng nói đến “ Tái phúc âm hóa”, nghĩa là phải giảng dạy lại đạo Chúa, không phải ở các miền xa xôi, mà bắt đầu lại từ chỗ mình đang đứng…
Xin chú thích, giữ đạo vì luật là chỉ giữ đạo tối thiểu theo nghĩa đen hẹp hòi, và tiêu cực của luật; nặng về đe dọa, hình phạt và hỏa ngục theo thời xưa.
Văn thư “tân phúc âm hóa” cũng nêu ra vài đường lối ngắn gọn, nhưng là hướng đi đổi mới đầy cách mạng, nhưng tiếc thay, mấy chục năm rồi mà chỉ có vài địa phận gióng lên vài buổi họp rồi thôi.
Trong thời Đức Gioan Phaolô để nhị, có hai đổi mới to lớn, nhưng lại rất khéo léo nhẹ nhàng, không gây ồn ào: Thứ nhất là ngài đã thay đổi hầu hết các HY người Ý và thay vào bằng HY từ các nước trên thế giới; thứ 2 là Ngài lập ra ngày lễ “lòng Chúa thương xót”, để thay thế giáo huấn đầy sợ hãi, răn đe, hình phạt hỏa ngục của thời xưa.
Trở lại với một tiểu tiết trên đây là lời ĐGH nói là giới trẻ cải đạo sang đạo khác là vì họ không tìm thấy trong đạo ta những lời dạy dỗ thoả đáng với họ. Đây là một sự thật đau lòng đang xảy ra giữa con cháu chúng tôi và nhiều giới trẻ khắp nơi.
Đôi khi chính chúng tôi cũng nghe những lời giải thích quá đơn giản, có tính cách “cả vú lấp miệng em“, ép buộc chúng như thời còn con nít chứ không đổi thoại với chúng theo trình độ của chúng ngày nay.
Nghĩa là việc dạy giáo lý phải nâng cấp cho hợp với thời đại.
Xin kể 1 chuyện có thật đó là: Tờ báo công giáo Mỹ là National Catholic reports, có 1 cuộc khảo sát người công giáo Mỹ với câu hỏi là: bạn có tin rằng Chúa Giêsu có thực sự ở trong phép Thánh-thể không? Chỉ có 30% trả lời là có, và câu hỏi kế tiếp cho số 30% những người này là: tại sao bạn tin như vậy? Và câu trả lời là: tại vì các cha và các sơ dạy như vậy!
Câu chuyện trên đây nói lên rằng, đa số giáo dân chỉ được học giáo lý ở trình độ rất đơn giản của thời còn nhỏ và khi trưởng thành thì nhiều người không đủ khả năng để đối chọi với chống phá của thời đại và họ đã mất dần lòng tin.
ĐGH Gioan Phaolo II lập ra “Tân phúc âm hóa”, kêu gọi sự đổi mới về rao giảng lời Chúa và ĐGH Francis đã nâng cấp giáo lý viên lên thành một chức vụ là “Thừa tác viên giáo lý”. Nghĩa là Ngài đã coi việc giảng dạy giáo lý là một cấp bậc quan trọng cần phải nâng cấp, phải có một đoàn ngủ giáo lý viên được đào tạo đầy đủ khả năng, giáo lý và giáo luật.
Đây là một đoàn ngũ giáo lý viên, từ nay, có danh xưng chính thức trong giáo hội và họ sẽ là nồng cốt truyền bá giáo lý cho giáo dân.
Bộ giáo lý và giáo luật đã có từ hơn nửa thế kỷ này mà chỉ rất ít giáo dân đã mua, 2 bộ này chỉ được dịch ra tiếng Việt với số lượng rất ít mà theo chúng tôi biết thì cách đây vài năm cũng chưa bán hết.
Mới đây có một cuốn giáo lý,ngắn gọn hơn, nhắm cho giới trẻ, đây là bộ mới của giáo hội và cũng mới được dịch ra tiếng Việt vài năm nay, nhưng cũng không bán được. Chúng tôi đọc và nhận xét, thì những ngôn ngữ này vẫn nặng về chuyên môn và có lẽ rất khó hiểu đối với người không quen về những từ ngữ tôn giáo và giáo lý.
Vậy nhu cầu giáo lý của giáo dân ngày nay là gì?
Ta hãy đọc trên YouTube và phân tích các câu hỏi trong các buổi giáo lý của các đấng giải đáp, để phân loại nhu cầu và trình độ giáo lý của giáo dân; để lắng nghe và tìm hiểu nhu cầu và trình độ của đại chúng và xin soạn ra những tài liệu giáo lý thiết thực cho hợp với cuộc sống hằng ngày, với nội dung và ngôn từ dễ hiểu và tránh dài dòng. Theo kiểu hỏi/dáp và sắp xếp theo từng đề tài.
Cũng trong chiều hướng này mà năm 2008, một hội nghị giám mục thế giới đã họp bàn với đề tài là làm sao lôi cuốn được giới trẻ trở về với Thánh lễ Misa. và hội nghị đã đi đến kết luận là phải cải tiến lại các bài giảng, nghĩa là các bài giảng phải thích hợp cho giới trẻ và cuộc sống của chúng. Các ngài đã lại nhắc nhỏ nhiều lần rằng bài giảng phải thực tiễn và phải có phần ứng dụng cho cuộc sống hằng ngày.
Có ý kiến rằng các cha phải học hỏi và gần gũi với giáo dân để tìm hiểu về cuộc sống thực tế của giáo dân. Đây là đề tài mà ĐGH Francisco và cũng đã nhiều lần nhắc nhở là các linh mục phải sống gần với giáo dân để học hỏi với giáo dân.
Sống gần giáo dân là vấn đề dài dòng. Chúng tôi sẽ xin bản đến phần 2b dưới đây.
2b. Xin các Đấng hãy sống gần giáo dân.
Đây là một đề tài cũ nhưng ngày nay càng trở thành cấp thiết mà cho tới nay tình trạng vẫn đứng tại chỗ, vì tâm trạng “Giáo sỹ trị” vẫn còn phảng phất.
Chúng tôi xin nhắc lại vài chứng cớ, (đã nêu trên): trong hội nghị công đồng Vatican II, một số Nghị phụ đã phát biểu rằng: chúng ta vẫn coi giáo dân là công dân hạng 2, chỉ biết cúi đầu vâng phục và đóng tiền. Và mới đây, trong đại hội kết thúc năm hiệp hành, tất cả 8 giáo điểm của tổng giáo phận SàiGòn đều có một câu kết luận: xin các cha hãy sống gần chúng con.
Tổng giáo phận Sài Gòn có thể được coi là tiêu biểu cho đại đa số công giáo Việt Nam (cũng như dư luận của công giáo Mỹ) vì tổng giáo phận SàiGòn đông dân hơn các địa phận khác và nhiều thành phần văn hóa khác nhau.
Từ nhiều năm nay, một số bậc cha mẹ chúng tôi vẫn khắc khoải tự hỏi: tại sao việc sống gần giáo dân lại khó làm đến thế?
Một lý do mà chúng tôi nhận xét được (là vì một số anh em chúng tôi cũng đã từng là nhà tu) đó là khi ở trong nhà tu) thì ta được dậy dỗ là kiểm chế ngũ quan để khỏi có dịp sa chước cám dỗ, nhưng đồng thời ta lại mất dịp học hỏi về cuộc sống thực tế.
Khi một người tu hành về thăm gia đình, thì mọi người trong gia đình, và hàng xóm nữa, họ đều chào đón với thái độ yêu mến và kính trọng! Đến nỗi ta cảm thấy mọi sự chung quanh đầy màu hồng và từ đó lạc lõng với cuộc sống.
Hơn nữa, cuộc sống của một nhà tu thì mọi sự đều được cung phụng đầy đủ, không phải lo tiền nhà, điện nước, bệnh tật thuốc men, cho mình hay cho bất cứ ai. Và vì thế, khó động lòng thương cảm đến những con cái đau khổ hồn xác chung quanh mình.
Cho dù các đấng có đi thăm viếng giáo dân, thì chiếc áo tu hành của các đấng cũng trở thành bức thảm đỏ vô hình, ngăn cách sự giao tiếp thân tình và thẳng thắn với bên ngoài, nên cũng khó có thể nhìn thấu rõ được hoàn cảnh sống của người khác.
Dù hiểu như vậy, nhưng chúng tôi vẫn muốn nêu lên với các đấng một vấn đề nổi cộm của ngày nay, đó là: Tông huấn Amoris Laetitia của ĐGH Francis, về các cặp vợ chồng ly hôn và tái hôn.
Những lập luận mà chúng tôi diễn đạt ra đây là những tìm hiểu gom góp từ các bình luận của nhiều vị HY, ủng hộ cho đường lối của ĐGH, những lý luận được nại đến nhiều nhất là tình trạng thiếu tự do và bất khả kháng của các hối nhân, nhất là khi có con cái con nhỏ… Kể cả việc xét lại tình trạng và mức độ tự do ngay từ ngày cứ hành lễ cưới nữa.
Tông huấn mở một đường lối để cho các hối nhân có thể trở về với Chúa và cộng đoàn. Trong đó cũng không thiếu gì các con chiên lạc đang sống trong cộng đoàn và chung quanh các cha, cũng như có thể là con cháu của chúng tôi.
Tóm tắt Tông huấn: ĐGH Francis đã rộng ban cho các linh mục được quyền xem xét cho các cặp vợ chồng đang trong tình trạng rắc rối để họ có thể hòa giải với Chúa và cộng đoàn.
Giáo hội thông hiểu sự đau khổ của những cặp vợ chồng sống trong bất hòa nghiêm trọng mà không thể hòa giải. Sau đó họ đã phải ly hôn và tái hôn trong những tình trạng bất đắc dĩ, đầy thương cảm.
Chúng tôi xin phân loại một cách vắn tắt, về vài nguyên nhân đưa đến đổ vỡ gia đình:
Thứ nhất: hôn nhân chưa đủ trưởng thành - do cảm hứng nhất thời - do bị lôi cuốn vào đam mê dục vọng, giầu sang, đổi đời v.v.
Những trường hợp này xảy ra rất nhiều và thông thường trong các cuộc hôn nhân. Ở các trường hợp này, thì thông thường là đương sự không có đủ tự do và trưởng thành đủ để quyết định đúng đắn. Nên việc hóa giải hôn nhân là đơn giản và dễ dàng nhưng vì phải qua tòa án địa phận với thủ tục rườm ra và lâu dài cho nên ngày nay không còn ai nộp đơn nữa.
Thứ hai: Một số các cặp vợ chồng, sau vài năm kết hôn, cũng đã thú nhận là mình đã ít nhiều sai lầm trong việc chọn lựa người bạn đời. Nhưng tốt đẹp thay, là họ bằng lòng chấp nhận nhau và cùng sửa đổi để hòa hợp.
Nhìn chung, thì tất cả mọi cuộc tình trai gái đều bắt đầu bằng một thứ giác quan nào đó, nghĩa là yếu tố từ bên ngoài, như hai đôi mắt gặp nhau với tia chớp bất ngờ hay vài lời êm tai đúng lúc, đúng âm điệu hay một cái gì gì đó, đã gây thành cú sốc.
Nhưng có một yếu tố tiềm ẩn từ nội tạng, đó là sự sẵn sàng của cơ thể, ví dụ xu hướng về tính dục v.v.
Ta vẫn gắn cho các cuộc tình trai gái cụm từ “tình yêu”. Vậy nếu áp dụng vào các trường hợp trên đây thì tình yêu đã bắt đầu ở giai đoạn nào và tình yêu là thế nào?
Các nhà đạo đức thì đặt cho hôn nhân cụm từ “hai bên thiết lập hôn nhân trong “tự do” hoàn toàn và sau đó hôn nhân không được tháo gỡ.
Vậy xin phân tích: ở các trường hợp trên đây thì tình trạng tự do xảy ra ở chỗ nào và tự do là gì.
Hai từ ngữ “tình yêu” và “tự do” là những từ ngữ cao siêu của con người; nhưng khi ta ghép đặt vào trường hợp cá biệt là “lấy nhau vì tình” hoặc “hôn nhân trong tự do” thì nó lại có ý nghĩa trừu tượng mơ hồ và trở thành đề tài cho phân tích và tranh luận để định giá mức độ của mỗi tình trạng. Ví dụ: tình yêu trai gái là thứ tình yêu có tính điều kiện, nghĩa là có qua có lại, là có ý chiếm hữu; nó không như tình yêu “mẹ yêu con” là tình yêu hiến tặng, vô vị lợi.
Yếu tố tình yêu và tự do là 2 yếu tố then chốt mà ngày nay các tòa án hôn phối công giáo đã đặt lên hàng đầu để phán đoán về mức độ hiệu lực của các cuộc hôn nhân để có thể tuyên bố là vô hiệu.
Ngày nay, nhiều bình luận của các đấng cũng đã nói đến yếu tố tự do trong việc định mức tội trọng hay nhẹ. Lương tâm không có cùng một thước đo đồng đều cho tất cả mọi người.
Hôn nhân không thể tháo gỡ, không phải chỉ vì mấy lời thể hứa giữa 2 người trong buổi hôn lễ, mà nên hiểu rằng, Những lời hứa trong hôn lễ chỉ nặng về hinh thức bên ngoài mà thôi.
Trên đây là những tư tưởng mà chúng tôi thu thập được từ các bình luận của các đấng ủng hộ cho Tông huấn Amoris Laetitia, và các bình luận đã phân tích nhiều đến những trường hợp thiếu yếu tố tự do mà người ta phải tái hôn ví dụ để bảo tồn đời sống cho con cái hoặc có chỗ nương tựa v.v.
----------------------------------------------------
Để kết luận, kính thưa các cha,
Trên đây, chúng con đã dài dòng trình bày những vấn nạn của giáo dân chúng con. Để xin các cha hãy thương đến các con cháu của chúng con. ĐGH Francis đã trao đặc quyền đến tay các cha để trực tiếp giải quyết cho các cặp vợ chồng rắc rối. Rất nhiều cặp vợ chồng này đang hướng về các cha để cầu mong được trở về với Chúa và cộng đoàn. Chúng con là bậc ông bà cha mẹ cũng đang ngóng lên các cha. Xin hãy cảm thông đến con cái Chúa mà ra tay tháo gỡ xiềng xích cho chúng.
Vì chỉ 1 bàn tay duy nhất của các cha mới làm được mà thôi.
Ngoài ra, chúng con cũng xin nhắc đến việc tha cho những người đã phạm tội phá thai, bị vạ tuyệt thông (mà rất nhiều người không biết) xin thông báo để họ biết mà tìm đến các cha để xin tha vạ tuyệt thông.
Chúng con cũng xin nói thêm về luật giáo hội, điều 916, Đó là cho phép các hối nhân được rước lễ khi chưa kịp đi xưng tội (mà chỉ cần ăn năn tội cách trọn). Đây là điều luật giáo hội đã có từ lâu nhưng chỉ vài năm nay thỉnh thoảng được nhắc tới, nhưng rồi lại không phổ biến rộng rãi.
Bao nhiêu năm nay chúng con đã từng sống trong khắc khoải và thắc mắc rằng có phải giáo hội đã sai lầm không khi viết ra luật này hoặc đây chỉ là quan điểm của một số các đấng bảo thủ, chỉ tìm cách chống đối với mọi đường lối cởi mở của giáo hội.
Chúng con còn nhớ những giáo lý sơ đẳng hồi còn nhỏ rằng khi ta phạm tội trọng thì lập tức nên ăn năn tội cách trọn, để nếu chết thì không bị sa hỏa ngục, có nghĩa là tội trọng đã được tha, sau khi ăn năn tội?
Đây là một ví dụ về nhiều bối rối mà chúng con gặp phải trong cuộc sống đạo…
ĐGH Francisco đã nói: “rước mình thánh Chúa vào linh hồn là để thông ơn Chúa và sức mạnh, chứ không phải là một phần thưởng cho người hoàn hảo thánh thiện”.
Đây cũng là 1 cách khuyến khích tội nhân quay lại với Chúa, chạm vào Chúa để được ơn Chúa để rồi sẽ làm quen với con đường trở về với Chúa.
Có cách nữa mà một số cha hay làm, là lợi dụng những dịp làm lễ giỗ tại gia đình, thì các cha ban phép giải tội chung, mục đích là để những người đã bỏ xưng tội có dịp rước mình thánh, để nhờ on Chúa mà họ làm quen lại với đời sống đạo.
Chúng con xin biết ơn các cha.
------------------------------------------------------
3. Phụ lục: Những hy vọng đầy phấn khởi cho tương lai của giáo hội.
Khi Kỷ niệm 50 năm công đồng Vatican 2, nhiều bài bình luận đầy thất vọng vì những tiến bộ không đáng kể trong việc thực hành các chương trình của cộng đồng, chỉ vì phe bảo thủ.
Đến thời ĐGH Gioan Phaolô II, với chương trình “tân phúc âm hóa” cũng đi vào khoảng không.
Đến thời ĐGH Francis, với hội đồng giám mục thế giới 2014-2015, khi kết thúc cũng chỉ đạt được kết quả 50/50. Vì vậy năm 2016 Ngài mới ra Tông huấn Amoris Laetitia để bố túc cho hội nghị với những chỉ thị mới mẻ, để giúp đỡ hàng triệu triệu gia đình tan vỡ có dịp trở về đời sống bình thường với dân Chúa (Như chúng tôi đã kể ở trên).
Đến năm 2023-2024, ĐGH lại tái lập HDGM thế giới và lần này thì kết quả với đại đa số thành viên đã ủng hộ chương trình của ĐGH Francisco.
Rồi đây, nhiều chương trình đổi mới sẽ được tiếp tục soạn thảo và ban hành.
Trong bản báo cáo tổng kết ngày 26/10/2024, có vài điểm chính như sau:
- Sẽ duyệt lại và bổ túc bộ giáo luật hiện hành.
- Sẽ tổ chức lại chương trình đào tạo hàng linh mục.
- Sẽ nghiên cứu thêm các định nghĩa về 3 lĩnh vực: 1. (người) chỉ dẫn và giải thích; 2. (người) thâu nhận và suy xét, cân nhắc; 3. (người) quyết định hành động.
(Văn thư không giải thích chi tiết về phần này, nhưng chúng tôi dò hỏi thì hiểu rằng, sẽ có những giải thích rõ ràng hơn về vài lĩnh vực như lương tâm hay tự do… liên hệ đến những hành động của ta và có thể hiểu được rằng những suy tư về sống đạo sẽ không còn bị đóng khung chặt chẽ nữa.
Đến nay, thời ĐGH Leo, thì ta đã nghe nhiều là ngài sẽ tiếp tục đường lối của Đức Francisco, và hơn nữa ngài đã nhắc đến giới nghèo, bị bỏ rơi và sẽ sống gần và lắng nghe giới trẻ nhiều hơn.
Sự ủng hộ của đại đa số Hồng y cho Đức Leo sẽ làm cho số ít bảo thủ còn lại sẽ phải suy nghĩ nhiều hơn.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa thánh thần đã luôn nâng đỡ giáo hội.
Nguyễn Thất-Khê.
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
|
|