|
|
Số phận người đã làm gương xấu.
Ðến đây cha cho phép con ngừng lại khúc truyện con, để tả cho cha hay về cái số phận hẩm hiu Chúa đã dành để cho những kẻ đã làm ô gương.
Thày giáo Vinh, sau khi đã hành xích con đủ điều, đã ra cho con cái án bất công nhịn đói và ngồi ăn với chó, rồi lại tìm cách tuyệt cấm con rước lễ hàng ngày.
Sự thực, theo tư cách bề ngoài, ý nguyện của thày ấy đã được coi là đầy đủ. Nhưng thày ấy không biết rằng: Chúa sống trong con bằng muôn vàn cách... Nếu mỗi sáng con không dám trực tiếp bước lên bàn thánh để đón lấy bánh các Thiên thần, thì cái sự khát khao, trìu mến của con cũng đủ Chúa thân đến với con cách âm thầm kín nhiệm, mắt thịt tuy chẳng ai thấy một cách rõ ràng và êm sướng.
Nay kỳ hè đã tới, tuy cha xứ đi cấm phòng năm chưa về, nhưng thày ấy cũng mạn phép đi chơi hè. Với một vẻ mặt kiêu căng, tự tín, thày ấy đã tỏ rằng: mình có sai thì cha xứ cũng chẳng dám làm gì quá...
Thế rồi, thày ấy đã đi chơi quá học hè. Ngày khai trường đã đến mà mãi đến 15 hôm sau thày giáo mới lệ khệ vác bụng về. Ðã thế, lúc cha xứ hỏi:
- Ði chơi đâu mà về trễ thế?
Lại chặc môi nói bướng:
- Ði chơi!
Do sự bướng bỉnh ấy, cha xứ phải buộc lòng viết thư về phàn nàn với cha Chính. Và cha Chính đã đáp lại cho cha xứ được tùy quyền xử đãi, và ra hình phạt nào mặc ý. Cha xứ y lời, ra cho một hình phạt đúng hạn 15 ngày.
1. Mất chức thày, xuống ngang hàng với chức bõ.
2. Phải làm bếp, đọc sách ở nhà chung, phải ăn cơm sau, ngồi chỗ cuối cùng trong hàng các bõ.
3. Hết hạn 15 ngày phải chịu 15 roi đòn.
Có thế thôi, thế mà ông còn kiêu căng không chịu nhận, lại còn lần về sở Ðức Cha để khiếu nại. Nhưng đi đâu cũng bị đeo cái hình phạt như ở trên, thành thử ông đành cạo râu mép, rồi rút lui có trật tự. Từ đó cái oai của Hitler biến mất trên khuôn mặt ông, và ông đã trở nên một tên côn đồ đi lường gạt đủ truyện. Rồi ít lâu nghe mất tích. Thiên hạ bàn tán, có lẽ ngài đã sang Mốt-cu để cầu cứu?
Ông đi được ít lâu, cha phó Năng cũng có lệnh đổi đi nơi khác. Số các thày kẻ giảng trong nhà bỗng rụt hẳn đi, và do đó số gương mù cũng lần lần hạ xuống. Những thày đã dính tay vào vụ án bất công của con, điều đã bị những hình phạt do tay Chúa trừng trị. Người thì bị bệnh tật, người khác cũng trở nên côn đồ, đầu trộm đuôi cướp, dâm đãng đủ điều, rồi cũng phải trục xuất ra khỏi nhà tu.
Thưa, chắc cha cũng hiểu rằng con không có ý nói những hình phạt này ra để nguyền rủa những kẻ đã làm thương tổn đến thân xác hoặc tinh thần con. Mà con chỉ có ý nhắc cho đời hay, nếu con bất lực thì chính Chúa đã là sức mạnh để bảo vệ cho sự bất lực của con. Con chẳng có ý ước ao cho họ chịu những hình phạt ấy. Nhưng nếu họ cứ chấp mê, thì Chúa sẽ chẳng nhịn mãi được. Người phải thi hành theo ấn định của Người.
Lên tám
Kỳ này con không còn phải chống chọi với nhiều gương xấu nữa. Tuy nhiên hình ảnh dâm ô nó vẫn còn phảng phất trong mấy kẻ còn lại. Họ vẫn uống rượu, vẫn cờ bạc, và vẫn có các chị học trò đi lại trong nhà xứ như thường. Mặc dầu không có ai ép buộc con phải can dự vào những công việc ấy. Cho nên con cảm thấy dễ chịu, và bắt đầu tìm lối tu như trước. Kỳ nầy có thể gọi là:"Tạm đình chiến". Chúa đã biết sức chịu đựng mong manh của cành hoa yếu ớt, và người đã khiến cho thời giông tố bớt sức mạnh, và để cho hoa kịp vươn mình thêm cứng cát.
Nhưng đời con điêu đứng, có khi nào được yên vui cho trọn? Chúa đã để con phiêu bạt trong rừng vắng, và chỉ có bóng tối dẫn đường cho con đi. Bao nhiêu những sự mơ ước đến tương lai linh mục của con, con đều nhận thấy nó vô cùng trống trải. Không ai lo cho con về đường học vấn, cũng như đào luyện về tinh thần. Trái lại, con thấy mọi người điều đi ngược với tôn chỉ nhà tu. Và tất cả những cái đảo ngược ấy đã trở nên nguồn cớ xâu xé trái tim con. Cho đến nỗi một ngày kia con cũng phải tư tưởng như họ rằng: Chúa công thẳng, mà loài người thì tội lỗi; do đó, chúng ta không thể đến gần Chúa được. Mà bởi không thể gần Chúa được thì họ buông mình theo ma quỉ.
Ở đây con cảm thấy có những chỗ rất khó nói. Nhưng để khỏi phải khó nói, con xin thưa rằng: Ở đây không bao giờ con được nghe ai nói về lòng nhân từ của Chúa, dầu cho những bài giảng dậy trong nhà thờ con cũng không hề tìm thấy một câu nói khích lệ lòng tín nhiệm vào Chúa. Mà cái sự tín nhiệm ấy lại phải là một điều kiện rất cần cho tâm hồn người giáo hữu. Con cảm thấy mỗi ngày, con một bị cái hấp lực lôi cuốn con đi xa Chúa. Thực hành những điều như con tư tưởng thì con không dám, vì con không tìm được một ai để tỏ bày những sự con tư tưởng.
Cho nên con cứ phải âm thầm chịu đựng cho đến ngày gặp gỡ Chị Thánh Têrêsa bên đồi Quảng Uyên, nghĩa là 5 năm sau.
Con không dám rước lễ hằng ngày nữa, cũng là do mối e ngại ấy.
Về đàng thiêng liêng con cứ phải sống trong e ngại; đường học vấn không có người lo, bằng tuổi ấy giả như ở nhà thày mẹ, con chắc không thể là một đứa trẻ toi cơm như thế.
Cha xứ, người còn đang lo xây cất nhà thờ, và do đó người quên lửng ngay cái đền thờ bằng xương máu, mà người đã đảm nhận công việc dựng bàn thờ, và gây nên một ngọn lửa yêu dâng kính Chúa đêm ngày. Không bao lâu người cũng quên cả cái ý định tương lai mà thày mẹ con đã ước lòng về con. Người đã liệt con vào một hạng bồi, vừa tiện lợi mà lại khỏi phải mất tiền công.
Con đã trở nên một đứa trẻ đi làm bồi cho cha xứ, chứ không còn gọi được là đi giúp việc nhà Chúa nữa. Tương lai linh mực của con là một đêm tối dầy đặc!
|
|