|
Quân Pháp nhân cơ hội, lại lủi về sân chiếm lại căn cứ. Quân đội Nhật lại phải kéo nhau về kháng chiến. Nhưng đại tướng đã ra lệnh, đừng bắn súng nữa. Cuộc chơi do đó đã bớt vui đi nhiều lắm.
Cậu kia thấy con trả lời thẳng thắn, mặt gầm gầm, vừa quay đi vừa đe:
- Ðược rồi, để thày già về tao sẽ mách. Một chốc, lại thấy anh ta đi gây lộn với đại tướng Pháp. Ðại tướng Nhật, lên ngựa theo quân về thủ đô, và phát thanh cho bên Pháp hay rằng: Quân ai chạy xuống rừng nữa là thua. Rồi hai bên lại kháng chiến.
Một lần nữa, quân Pháp cứ lần lần thụt xuống phía rừng. Gần thua... Thì lại một lần nữa, anh cậu lúc nẩy đến làm cản trở đại tướng Nhật:
- Văn, đã bảo mà mày còn bướng hữ?
- Bướng gì? tôi có đốt pháo nữa đâu? Còn tôi chơi tôi vẫn chơi. Ai cấm chơi giờ này?...
Không trả lời, anh ta hằm hằm chạy đi lấy cái dùi trống, tiến lại gần con. Lũ Nhật sợ, bảo nhau chạy trốn hết, cả con ngựa của đại tướng cũng vứt đại tướng xuống đất rồi tẩu thoát. Chỉ còn một mình đại tướng đứng yên, và cương quyết giữ vững địa vị "đại tướng"
Anh cậu lăm lăm cầm dùi trống trên tay, hạch:
- Bây giờ, giỏi, mày cứ nói bướng đi với ông xem nào?
- Bướng gì? Anh bảo phải thì tôi nghe, chứ ai cho phép anh lạm quyền trên mà cấm chúng tôi thế nọ với thế kia? Anh đừng có giở cái trò cá lớn nuốt cá bé mà hạch lạc tôi làm gì. Tôi đây cũng có quyền bằng anh, nếu tôi giữ đúng địa vị tôi.
- Mày bảo ai là cá lớn nuốt cá bé đấy?
- Anh.
... Bốp!
- Quân chó! chỉ tài ăn hiếp!
- Mày bảo ai ăn hiếp đấy?
Và giơ thẳng cánh giáng cho con hai dùi trống vào bắp chân.
Hết vẻ oai vệ của một vị đại tướng, con ngã khụy ngay tại chỗ. Ðến đây, con chỉ còn biết nằm ôm chân mà rên xiết, hơn là tìm ra lẽ phải để mà kháng cự với anh cậu kia.
Ðánh con xong, cậu ta lủi hủi vác dùi trống đi, miệng còn lẩm bẩm:
- Cho chết..., đại tướng Nhật à! Ông cho què một chân...
Cậu ta còn đe, tối nay sẽ đem mách với thày già về vụ đó. Mà thật tối ấy, cậu ta đem câu truyện đi thưa với thày già và thêm bớt thế nào để cho cái việc quan cậu đánh con là vô can. Theo luật, cậu ấy đánh con là một lỗi nặng. Nhưng ông già thì bây giờ còn luật phép nào nữa?...
Lại mấy anh cậu lớn đã bị nhà trường thử thải về, ăn cánh với ông, thành thử ông tha hồ hoành hành lũ cậu bé. Những đứa trẻ mà đời tu ở đấy đã biến chúng thành một thú đồ chơi có lợi. Ông già đã ghét con sẵn, nay nghe có dịp tốt, ông tính sẽ để cho cha xứ đi làm phúc rồi ở nhà một mình ông làm chúa, rồi ông mới đem vụ "đốt pháo giữa sân rơm" ra xử...
Suốt đêm ấy con nằm suy nghĩ, đắn đo, và cầu xin ơn soi sáng. Con cũng biết trốn đi là nớt đảm. Không nhẽ vì sợ một trận đòn mà con trốn? Vả nữa, ở đây tuy những người trên không ưa con lắm, nhưng phần đông các cậu bé điều có thiện cảm với con, và có lúc dường như họ vẫn cần phải có con sống với họ.
Dẫu thế, nghĩ đến chiếc roi mây bện tám, vung lên, với nét mặt thù ghét của ông già, con lại cảm thấy thất kinh. Rồi con lại tự kết tóm: Ta cần phải trốn thoát nơi này. Ta cần phải tự tìm lấy một nhà tu chính đáng để tu thân, và để sửa soạn cho điều nguyện ước làm linh mục của ta được rõ rệt.
A! Lậy Chúa, nếu Chúa muốn con làm linh mục, thì con quyết sẽ là một cha xứ chiếu giãi tình yêu thương của Chúa cho các linh hồn. Con ước ao được làm linh mục! Con khao khát cho danh Chúa được rạng tỏ. Mà sự khao khát ấy thôi thúc con như nai rừng tìm suối nước trong lành...
Thế mà ở đây, người ta đã cố ý chôn vùi cái ý nguyện tốt đẹp nhất của đời con đi. Thay vì lo cho con thành một vị linh mục, thì người ta lại bắt con phải chăm chú đến đàn vịt, đến địa vị làm bồi cho cụ xứ. Những cái ấy có thể làm con phẩn uất. Con nhất định trốn đi. Và sẽ không về nhà nữa. Con chỉ có ý tìm kiếm một chốn tu chân chính. Lời mẹ khi này có âm vang qua tâm não con. Song nó không còn hiệu lực đủ để cản cái sự quyết đinh đi tu chỗ khác của con nữa....
|
|