|
Con ngồi nhìn quanh một lượt, thấy rõ cảnh neo núng của gia đình này. Mặt tường phía trong cũng giữ một lối kiến trúc như phía ngoài, đây một khúc phải che liếp, kia lại một chỗ gạch nhô ra, lốm đốm, có thể tưởng ra được mọi hình thù. Nền nhà không lát gạch giếc gì cả, và ẩm thấp quá gian hàng cá ở chợ. Tất cả gian nhà, chỉ có một chỗ ngồi độc nhất, là cái giường vuông. Không một chiếc ghế, một ngăn tủ.
Ðối chiếu với chiếc giường con ngồi, thì góc kia là một chiếc lò xây cao lên đến chừng ngang lưng. Ðó là một chiếc lò, nhưng cũng còn là bàn thờ của gia đình nữa. Vì ngay trên vách sát với lò, người ta đã treo một tượng chuộc tội bằng gỗ, với hai khung ảnh hai bên, một bên là ảnh Trái Tim Chúa Giêsu, một bên là ảnh Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Tất cả điều bị khói ám đen, coi không còn ra hình tượng. Nhưng theo con nhận xét, thì chỉ có chỗ ấy mới còn là chỗ xứng đáng nhất để treo ảnh, vì những chỗ khác còn tồi tệ bằng mấy...
Ðang lúc con còn nhiều ý nghĩ về gia đình nghèo khó này, thì thằng nhỏ đã bú xong. Nó há miệng cười hề hề. Thỉnh thoảng nó lại đưa tay lên đầu gãi những mụn chốc. Người mẹ hình như còn chú ý đến đứa bé hơn là chú ý đến đứa con nuôi mới đưa về. Ðột nhiên con lên tiếng hỏi bà:
- Thưa bà, ông nhà đi làm đâu chưa về ạ!
Không nhúc nhích, hay tỏ một thái độ bỡ ngỡ, bà trả lời cho câu hỏi của con một cách thản nhiên:
- Nhà tôi đã mất non một năm nay.
Con bỡ ngỡ vì câu bà trả lời, không có một bằng chứng gì là thật, bởi vì ông mới mất non một năm, mà sao bà, và cả con cái bà nữa, không ai để tang cả? Con định đem chỗ vẩn xúc ấy mà hỏi bà, nhưng bà đã tiếp:
- Nhà tôi bị mất tích hồi Nhật mới qua Viêt Nam.
- Thế ra ông nhà phải tòng quân chứ ạ?
- Không, nhưng vì tình thế tỉnh nhà xôn xao nên nhà tôi đã bị người ta đưa đi đâu mất...
Ngừng một lát, như để nén lại sự cảm xúc, rồi bà tiếp:
- Không biết bây giờ sống chết ra sao?
Ðịnh, anh con cả của bà, đã dắt chiếc xe đạp dựng bên một góc nhà. Và dường như anh đã được nghe hai đứa nhỏ thuật truyện mẹ chúng vừa mới đưa về nhà một đứa con nuôi? Anh chạy lại gần me ôm choàng lấy đứa em út, và hỏi mẹ một câu rất mau:
- Chú nào kia hở me?
Bà mẹ đem câu truyện thuật cho anh nghe. Nghe xong, anh sung sướng reo lên:
- Ha! thế là từ nay con có một người bạn ở trong xưởng. Rồi anh giơ tay múa như thể là diễn thuyết.
- Ở xưởng, mẹ có biết không? Không có một anh nào có đạo sốt cả, chỉ có mình con, suốt ngày phải nghe chúng mách tục như quỉ sứ, khổ bỏ sừ...
Anh ẳm đứa em đến ngồi cạnh con, vỗ vai con và vui vẻ nói:
- Thôi, chú cứ chịu khó ở đây với mẹ tôi, anh em chúng mình sẽ cùng nhau đi học tập, nay mai thành nghề rồi chúng ta sẽ... tha hồ... nhỉ.
- Vâng, cái đó em cũng xin nhờ vào lòng tốt của anh chỉ vẽ cho.
Ðịnh đưa em cho mẹ, rồi đi nấu cơm. Hai đứa nhỏ vẫn chơi bi với nhau ở ngoài đường cái lớn, gần nhà chúng. Ngoài phố các cột điện đã bật sáng, mặc dầu người đi đường chưa cần phải có ánh sáng đèn.
Tối ấy Ðịnh dẫn con đi nhà thờ. Hai chúng con từ đây như hai anh em ruột thịt. Ðịnh quí mến và nhã nhặn với con hết sức. Anh tâm sự với con không biết bao nhiêu là điều. Anh đã bắt đầu gọi con là em từ sau lúc nhà thờ đọc kinh xong, khi hai người bá vai nhau đi về nhà. Anh mới mười bốn tuổi mà cuộc đời cũng đã chai dạn như một người ba bốn chục tuổi. Anh rất mến mẹ và yêu các em. Có lẽ vì thế mà anh cũng vui lòng chịu một chứng bệnh ghẻ như các em? Anh cứ phải rờ gãi luôn tay, mỗi khi anh không phải dùng tay để làm việc gì. Thế mà anh vẫn vui, vẫn nhẫn nại tha thứ cho những cái ghẻ cắn rứt anh.
Về nhà, anh lo thu xếp chỗ nằm. Chiếc giường độc nhất kia, anh nhường để cho mẹ và hai đứa em nhỏ, còn anh và đứa em gái lớn trải chiếu nằm dưới nền nhà.
Mẹ anh, sau giờ đọc kinh lại phải chạy ra hàng để phụ việc với người em trai của bà, vì giờ ấy rất đông khách đến ăn. Trước khi nằm ngủ, anh họp các em lại quì dưới chân lò, đọc ba kinh kính mừng dâng kính Ð.M.H.C.G. để cầu xin cho ông thân được an toàn tính mệnh. Các em vâng lời anh một cách ngây thơ, không đứa nào dám nói một lời hỗn xược, và tỏ một cử chỉ ương ngạnh. Con rất cảm phục cái tình huynh đệ mật thiết như thế, và lấy làm sung sướng mỗi lần nghe Ðịnh gọi con là em.
Ðọc kinh xong, Ðịnh mời con lên "giường đất." Bỗng nhiên, con cảm thấy gây gây, vì nền nhà ẩm thấp, và hơi đất xông lên một mùi gì khó chịu. Con còn đang suy nghĩ, chỉ sợ anh Ðịnh mà biết sự ghê tởm của con thì phiền lắm.
Nhưng Ðịnh không chú ý đến con, anh còn đang lục lọi trong đống củi lấy một thanh đem ra làm gối đầu, còn chiếc gối đầu của con thì anh chỉ vào cánh tay trái của anh và nói:
- Gối đầu của Văn đây cơ.
Lúc ấy con còn ngồi yên trên giường, cười theo câu nói khôi hài của anh. Nói xong, anh ẵm hai thằng nhỏ lên giường rồi bá vai con anh vui vẻ nói:
- Thôi đi ngủ em, kẻo muộn. Thường thường mẹ về là chúng mình phải ngủ rồi, không thì mẹ không bằng lòng.
Cái gái chẳng cần phải đợi anh nó bảo, tự nó lăn kềng ra chiếu, và ngủ cách ngon lành.
Con vẫn còn ghê sợ vì phải nằm trên đất ẩm. Nhưng con vẫn cố nén sự khó chịu, và phải lấy câu châm ngôn của Thánh Augustinô ra mà vỗ về cái cảm giác khó chịu của con: Anh Ðịnh nằm được, thì tôi cũng nằm được, chứ chết chóc gì mà lo.
Thế mà chốc chốc, con lại phải ngóc dầu dậy để giấu vào góc nhà những miếng nước bọt mà con không còn thể nuốt được vì mùi hôi ở rãnh nước đưa vào. Từ lúc đặt mình xuống chiếu, Ðịnh vẫn ôm đầu con trên cánh tay trái, còn tay phải của anh thì cứ sột soạt đi kiểm soát cái ghẻ từ nách cho đến chân, khiến con vừa thảm hại, vừa nực cười.
Con cũng cầu xin thiên thần bản mạnh đừng để cho cái ghẻ ở bên anh nó sang nguời con, vì con sợ gãi lắm. Mà hai người nằm gần nhau như thế, chắc là không thể nào thoát được sự thèm khát của cái ghẻ. May thay, con chẳng bị lây liếc gì cả.
|
|