|
Xin cho chúng con những bài giảng thiết thực và tích cực.
Sáng này bài giảng trong lễ nói rằng mấy năm trước đây nhiều người nại ra rằng vì có Cô-vit nên không thể đi lễ; nay hết Cô-vit rồi nhưng nhiều người vẫn không đi lễ…
Đây là một thực tế rất đúng. Nhưng giảng đi giảng lại mãi cả năm nay rồi, hỏi có đem lại kết quả gì không?
Rất nhiều bài giảng kiểu tiêu cực đầy trách móc, phê bình và chỉ thiên về lên án, làm người nghe nản chí.
Những dữ kiện như bao nhiêu giây có một vụ phá thai, bao nhiêu phút thì có một vụ bắn giết, cướp bóc v.v. đều chỉ gây cho người nghe thêm thất vọng, chán chường!
Tôi sực nhớ tới một tin tức mấy ngày qua: một người vô gia cư (homeless) nhặt được một bao tiền 5 ngàn đô-la hay 50 ngàn đô-la tôi không nhớ rõ. Anh ta đem đến phòng cảnh sát trao trả lại; bản tin rất khen ngợi anh hôm-lét này vì hành vi đạo đức của anh, một người ở dưới cùng tận của nghèo khổ nhưng có tư cách và nhân phẩm. Khi phòng cảnh sát trao cho anh một món tiền thưởng, thì anh nói rằng: tôi mong người chủ của gói tiền này là một người có cơ sở để cho tôi một việc làm lâu dài để kiếm sống; đây là một điểm son thứ hai của anh về nhân cách, đó là anh muốn vươn lên để thành con người tự lập.
Trong cuộc sống thường ngày, những câu chuyện như trên đây đã cũng thường thấy trên tin tức, như mới gần đây ở Việt Nam một anh tài xế taxi cũng đã đến nộp cho công-an món tiền khách bỏ quên trên xe... Rồi chuyện một em trai đã nhảy xuống sông để cứu bạn nhưng đã bị chết đuối. Rồi một em nhỏ bên Nhật đã đứng xếp hàng để lãnh đồ cứu trợ, em đã từ chối ơn huệ khi được cho phép lên hàng đầu để khỏi chờ đợi.
Và một bài giảng đặc biệt mà anh em chúng tôi vẫn chia sẻ với nhau đó là một bài giảng trong lễ: Vị linh mục kêu gọi giáo dân sống trong một con hẻm nhỏ: Ngài kêu gọi một số bà con công giáo: hãy bảo nhau đừng đổ rác bừa bãi ra góc chợ nhỏ, những người công giáo này đã tìm giải pháp để làm sạch đầu ngõ, và làm gương cho những người khác noi theo. Đây là bài giảng tích cực truyền bá lòng yêu người bằng hành động.
Dạy con cái đừng vứt rác bừa bãi xuống đất cũng là yêu người vì không để người khác phải khó chịu vì rác rưỡi.
Những câu chuyện thực tế loại trên đây, nếu đem vào bài giảng mà khai thác, thì sẽ dễ gây cảm xúc cho người nghe, để họ nhìn ra những tấm gương đáng bắt chước.
Kinh thưa các Đấng,
Chúng con là mấy anh em đã nhiều tuổi, vì đông con cháu nên vẫn lưu tâm đến chúng và bạn bè của chúng.
Chúng con nghĩ rằng khi người mẹ nấu những món ăn không hợp khẩu vị thì con cái có thể xin mẹ gia giảm cách nấu nướng cho hợp với chúng.
Vì vậy chúng con xin trình bày lên đây những khắc khoải của chúng con và con cái chúng con để mong được các Đấng lắng nghe và chúng con tin rằng cha mẹ nào mà không xót thương con cái mình.
Trong bài này, chúng con xin đề cập đến các bài giảng trong lễ.
Thưa các Đấng, chúng con nghĩ rằng những bài giảng nếu được chuyển đổi từ tiêu cực bằng những câu chuyện yêu thương tích cực như loại trên đây thì chúng con tin rằng nó sẽ trực tiếp đi vào lòng người nghe, vì những chuyện trên gần gũi dễ cảm nhận hơn là những chuyện xa xôi cách nay hằng trăm năm và xa ta hàng ngàn dặm.
Xin tránh những lời khuyên răn trừu tượng như “vợ chồng phải thương yêu nhau”, vì ai cũng biết vậy mà sao họ vẫn cãi nhau, bỏ nhau; nguyên nhân là sao, phải cải đổi thế nào để thành lời khuyên có thể thực hành.
Xin hạn chế nói chi tiết về lĩnh vực lịch sử, địa dư như là cách dậy thánh kinh cho chủng sinh, mà xin đem lời Chúa áp dụng vào thực tế cuộc sống; đụng vào tần số của giới trẻ thì họ mới cảm nhận được bài giảng hữu ích.
Một điều tâm lý khác nữa là nên kích hoạt tính chủ động của tuổi trẻ để họ ý thức rằng, nghe lời khuyên giải để làm điều tốt là một bổn phận và trách nhiệm làm người: làm cha, làm con, làm chồng vợ, như đi lễ không phải chỉ vì luật mà là vì ý thức bổn phận với Chúa v.v.
Đến đây, chúng con nghĩ rằng đã nói lên được vài ý chính.
Ngày nay, những phàn nàn về các bài giảng thì ngày càng nhiều, không phải chỉ ở Việt Nam, nhưng ở nhiều nước nữa. Chúng con xin nại đến các lời khuyên trong HĐGM thế giới năm 2008 và những lời khuyên của ĐGH Francis, là bài giảng phải đi với thực tế và phải có tính áp dụng.
Xin các đấng hãy lắng nghe với tấm lòng rộng mở để đối thoại với giới trẻ. Những bài giảng có tính chỉ trích giới trẻ đã không đem lại kết quả gì mà còn gây thêm phản bác xấu thêm.
Trong sinh hoạt xã hội ngày nay, nhiều gia đình có những thành phần đạo giáo khác nhau, như Tin-lành, Do-Thái, Phật giáo. Vậy khi giảng Phúc-âm nếu có những chuyện Chúa lên án người Do Thái thì các Cha nên tránh nhé cách nói như là mình đang chỉ trích những người đạo khác đang ngồi ở phía dưới. Đây là một sự thật vẫn xảy ra.
Những bậc cha mẹ ngày nay cũng đã biết mở lòng lắng nghe con cái. Vậy xin các Đấng cũng lắng nghe chúng con.
Kết luận: (cho phần trên đây).
Chỉ kết án rằng tại sao người ta không đi lễ hay tại sao người ta bỏ đạo thì không đủ mà nên tìm hiểu lý do căn nguyên để sửa đổi.
Xin kể câu chuyện sau: cách đây 5-7 năm, một tờ báo công giáo lớn ở Mỹ, National Catholic Report, đã làm một cuộc thăm dò một số lớn người công giáo Mỹ. Câu hỏi rằng quý vị có tin Chúa ngự thật trong phép Thánh-thể không? Chỉ có 30 % trả lời là có, và câu hỏi tiếp là: tại sao tin như vậy? Trả lời: tại vì các cha và các sơ dạy như thế.
Trên đây là cách dạy giáo lý cho trẻ thơ mà ngày này lớp già cũng không biết gì hơn cả. Vậy nguyên nhân người ta xa đạo vì người ta không được học hỏi đầy đủ để biết đạo.
Thánh-thể là một bí tích cao nhất về tình yêu của Chúa chùa. Giáo dân chưa được dậy đầy đủ để biết trong Thánh-thể có THẬT Chúa Giêsu và phải đi lễ để rước Thánh-thể... Cách dạy giáo lý phải được nâng cấp theo trình độ của giới trẻ trưởng thành.
Tại Công đồng Vatican II, nhiều giáo phụ đã lên tiếng: Tạ vẫn coi giáo dân là công dân hạng hai, chỉ biết cúi đầu vâng phục và đóng tiền!
Xin hãy dậy dỗ cho con cái chúng con một trình độ mới với hướng đi tích cực hơn. Xin dạy cho chúng biết ý thức được thế nào là con người có nhân bản, biết nhận thức được việc lành phải làm và việc xấu phải lánh, bắt nguồn từ trong chiều sâu tâm khảm để không còn làm vì e sợ hình phạt hay vì luật lệ mà thôi. Để chúng nhận thức rằng: sống đạo là một điều tốt và sống đạo trong niềm vui vẻ, thoải mái.
Ít lâu nay chúng con nghe một số các Đấng đã quan tâm đến việc học hỏi giáo lý cho lớp thanh niên, nhưng mới chỉ là những lời khuyên trừu tượng. Xin các đấng hãy chủ động xây dựng một chương trình cụ thể, quy mô từ trên xuống dưới, sử dụng những kĩ thuật internet và nghệ thuật marketing. Đây thực là một vấn đề khẩn thiết cho con cái chúng con.
________________________________
Phụ đề: Có phải rất nhiều người chúng ta sẽ phải xa hỏa ngục chăng?
Từ hồi còn nhỏ cho tới tuổi 60-70, tôi vẫn sống đạo trong tinh thần giáo lý cổ truyền. Với quan niệm rằng muốn lên thiên đàng thì thật khó, mà chung quanh cuộc sống thì đầy lỗi phạm.
Giáo lý đồng ấu là đọc kinh, xem lễ mà chia trí, chuyện trò, ngủ gật, đều có tội…
Tới khi trưởng thành, sống trong cuộc sống gia đình cũng đầy luật lệ chồng chéo, khó mà giữ để không bị tội… Phần lớn các thầy cô và các bài giảng chỉ nói đến hoả ngục và Chúa phạt, v.v.
Nhiều Giáo dân (ngay cả một số LM) dù có học hỏi cao về giáo lý giáo luật nhưng quan điểm về sống đạo thì vẫn bị khóa kín, không thoát ra được khỏi tâm trạng bảo thủ truyền thống của thời trước Công đồng Vatican II. Trong khi nhiều Giáo Phụ đang kêu gọi rằng chúng ta phải biết lắng nghe tiếng nói của thời đại.
Chúng tôi cũng thuộc lớp người sống đạo với những quan niệm truyền thống xa xưa. Cho đến vài mươi năm nay, khi phải đụng chạm với thời đại mới và nhìn đám con cháu, bạn bè của chúng với quan điểm tư duy mới. Anh em chúng tôi đã học hỏi thêm những tư tưởng, quan điểm mới về đạo lý.
Chúng tôi xin sơ lược về vài tư tưởng mới trong Giáo-hội như sau: Từ sau công đồng Vatican II, Giáo-hội đã có rất nhiều cởi mở và ít nói về hỏa ngục như xưa, đến thời ĐGH Gioan Phaolô II thì vài thay đổi tuy rất âm thầm nhưng lại ảnh hưởng lớn lao đến khuynh hướng giáo lý; đó là khi Ngài thiết lập lễ “Lòng Chúa thương xót”. Đây là một hướng đi mới như nâng cấp tư tưởng cho giáo dân ngày nay đã trưởng thành.
Đức Gioan Phaolô II cũng đã thiết lập chương trình “Tân Phúc-âm hóa”; trong đó ngại phê bình cách sống đạo kiểu “vị luật”, nặng về hình thức và kêu gọi “Phúc-âm hóa” ngay trong nội tâm, nội bộ của mình.
Trở về phụ đề trên là: Sẽ có bao nhiêu người chúng ta được cứu rồi?
Mệnh đề: “Chúa là tình yêu” đầy lòng thương xót, là một chân lý tối cao. Chúa chỉ cần đổ ra một giọt máu cũng đủ cứu chuộc nhân loại loại mọi đời.
Toàn bộ Tân-ước đều nói về tình yêu. Chúa không kết án những kẻ nghèo khổ, bệnh tật. Chúa tha thứ hết mọi kẻ tội lỗi, kể cả tha thứ trước khi chữa lành: “Ta cũng không kết tội còn đâu, hãy về đi và đừng phạm tội nữa”.
Chúa không nề hà khó nhọc để đi tìm chỉ một con chiên lạc, không nề hà đường xá khó khăn hoặc đêm tối.
Chuyện người con hoang đàng kể rằng khi người cha thấy đứa con trở về thì ông vội chạy ra ôm chầm lấy nó... Người cha già, bao ngày đem vẫn đứng tựa cửa, ngó mắt tận đầu làng xa xa… khi mới thấy bóng dáng con từ đằng xa, ông đã cảm nhận được ra là con mình…
Lòng Chúa yêu ta là thế đó!
Ngay từ trong Cụu-ước, Chúa phán: Người mẹ nào mà không thương con nhưng nếu có người mẹ không thương con thì ta cũng vẫn thương con.
Dù là cha mẹ phần xác, có cha mẹ nào muốn lên án con cái mình không? Cho là chúng bị người đời lên án đủ mọi thứ tội là đồng tính, là ấu dâm, là phá thai v.v. thì cha mẹ có đuổi chúng ra khỏi nhà không?
Chúa nói: “Ai thấy mình không có tội thì hãy ném đá trước đi”! Vậy ai là người không có tội? Hay là tội không đủ nặng như những người mà mình lên án chăng?
Đọc toàn bộ Tân-ước, ta chỉ thấy lòng thương xót của Chúa bao phủ tất cả mọi giới dân chúng nghèo khổ, bệnh tật, kể cả tội lỗi. Chúa chưa hề xua đuổi một ai.
Xin nói đến một vấn nạn lớn khác trong xã hội hôm nay, đó là những cảnh gia đình tan nát, vợ chồng li dị, tái hôn. 2-3 giòng con cái bơ vơ, sống thiếu sự thương yêu của đầy đủ cha mẹ.
Nguyên do chính là sự bất hòa giữa vợ chồng mà đi đến đổ vỡ và sự bất hòa này bắt nguồn từ nhiều khía cạnh; Đối với giới nghèo, thì khía cạnh kinh tế là quan trọng hơn cả: Người mẹ không có tiền mua gạo, người cha lo trả tiền nhà đầu tháng, con cái ốm đau không tiền thuốc v.v. Những khó khăn này, những người tu hành khó cảm nhận được, nhất là các Đấng cấp bậc cao, ở quá xa giáo dân, cho nên họ chỉ thiên về lên án.
Vài anh em chúng tôi cũng là tu xuất, họ tâm sự rằng, khi chúng tôi còn ở trong nhà tu thì chỉ được dạy là không nên đi sâu vào cuộc sống thế gian, sợ rằng sẽ bị vướng víu vào các cám dỗ. Đến khi trở ra sống với thực tế thì mới hiểu ra rằng những cái nhìn của mình ngày xưa về cuộc sống đều quá đơn giản.
Đến đây tôi nhớ lại một cuốn tự truyện của bốn vị linh mục, đã kể lại cuộc sống thực tế ngoài đời, sau khi cởi bỏ áo linh mục, nội dung chính của cuốn sách này kể lại những sự hiểu biết ít ỏi và sai lầm của mình về cuộc sống thực tế của giáo dân, khi họ còn ở bậc linh mục.
Chúng tôi cũng đã từng trải những cảnh nghèo khổ, chiến tranh cùng cực. Chúng tôi nhìn đến những cảnh gia đình tan nát, vợ chồng li tán với lòng xót xa thương cảm chứ không dám kết án ai cả; chúng tôi tự đặt mình vào hoàn cảnh của họ để nhận ra rằng nếu ở trong hoàn cảnh của họ mình cũng có chắc hơn họ không.
Có vợ chồng nào mà không hề gặp cảnh bất hòa, cãi cọ. Thử nhìn lên các đấng bậc tu hành tối cao xem, nhiều vị cũng đang bất hòa, chống đối nhau kể cả chống đội ĐGH, chống đối cả Công đồng Vatican II...
Ngày nay phần lớn các vị này là những người đang lên án gay gắt những cặp vợ chồng li dị và tái hôn; Đẩy họ ra khỏi sinh hoạt Giáo-hội nghĩa là các đấng ấy đang kết án họ phải sa hỏa ngục!
Họ chỉ đơn giản vin vào một câu của Chúa rằng: “Sự gì Thiên-chúa đã kết hợp thì loài người không được phân ly”, nhưng một mặt họ tránh né cái tình trạng thực tế là sau công đồng Vatican II, Giáo-hội đã thiết lập các tòa án hôn phối tại các địa phận để cho phép hòa giải những đám hôn nhân bất thành.
Chúng tôi đau xót mà nghĩ rằng đây chỉ là những quan điểm quá khắt khe, không thể được coi là phát xuất từ tấm lòng của cha mẹ yêu thương con cái.
Chúng ta đều có khuynh hướng là “không thấy cái xà trong mắt mình".
Ta kết án người khác vì họ phạm “tội trống”, nghĩa là tội người ngoài thấy được; còn ta tự nhìn lại mình, cũng có các “tội kín”, có thể đáng xấu hổ hơn. Vậy hãy lắng lòng để học tha thứ.
Kết luận: Chúa không cần đổ hết máu mình ra mới cứu chuộc được ta, nhưng Chúa đã làm thế, để ta thấy lòng Chúa thương yêu ta bao la chừng nào!
Vậy, thật là nghịch lý khi nghĩ rằng Chúa sẽ từ chối ban cho ta ơn cứu rồi!
Nếu lý luận rằng họ bị phạt vì họ không theo Chúa? Xin thưa, vì họ không biết Chúa hoặc biệt không đủ rồi trở nên chống đối Chúa chăng. Có phải tại ta không giao giảng lời Chúa hoặc rao giảng không đúng với lòng thương xót của Chúa chăng?
Bao lớp trẻ ngày nay chỉ biết giáo lý cấp đồng ấu và không hề được dậy thêm gì, nếu có thì rất nặng về hình thức và “vị luật” như lời ĐGH Gioan Phaolô để nhị đã nói.
Trên Thánh-giá, Chúa xin cùng Chúa Cha rằng: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết việc chúng làm”. Chúa bênh vực cả những kẻ giết Chúa, còn ta thì chỉ thiên về ném đá sao?
Chúa không kết án những người không hiểu biết rõ về Chúa vì tại ta không biết rao giảng đúng đắn về Chúa.
Hãy có lòng tin và cứ việc bước theo Chúa, dù ta yếu đuối, tội lỗi, đừng sợ.
Một số nhà thần học ngày nay, kể cả ĐGH Francis đã nói rất nhẹ nhàng về hỏa ngục. Giáo-hội và các nhà thần học vẫn còn tiếp tục học hỏi về Chúa; ĐGH Francis đã nói: “Chân-lý thì chỉ có một”, nhưng không ai có thể nói rằng mình biết hết về chân-lý.
Nguyển Thất-khê.
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
|
|